Ngày rằm tháng tư âm lịch mỗi năm là một ngày đặc biệt cho tất cả các Phật
tử trên thế giới. Theo truyền thống Theravada (Nguyên thủy, Nam tông), đó là
ngày Tam Hợp - Vesakha (Vesak) - kỷ niệm ngày sinh (Phật Ðản), ngày chứng đắc
(Thành Ðạo), và tịch diệt (Ðại Niết Bàn) của Ðức Phật. Trong khi đó, một số
các quốc gia theo truyền thống Mahayana (Ðại thừa, Bắc tông) cử hành ba dịp
trọng đại trên vào ba ngày khác nhau trong năm. Tuy nhiên, ngày rằm tháng tư
được xem như là ngày lễ Phật giáo quan trọng nhất, và đã được toàn thể các
tông phái Phật giáo thống nhất vào kỳ Ðại hội lần thứ VI của Phật giáo Thế
giới năm 1961 [1].
Ðến nay, mọi người đều thống nhất rằng Ðức Phật sinh ra trong đêm trăng rằm
tháng tư âm lịch năm 623 trước Công Nguyên (CN), tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni),
ngoại ô thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ), ngày nay thuộc xứ Nepal, gần biên
giới Ấn Ðộ [1]. Thân phụ Ngài là vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và thân mẫu là
hoàng hậu Maha Maya (Ðại Tịnh Diệu). Ngài thuộc sắc tộc Sakya (Thích Ca), có
họ Gotama (Cồ Ðàm), và được vua cha đặt tên là Siddharta (Tất Ðạt Ða), có
nghĩa là Như Ý. Năm 16 tuổi, Ngài lập gia đình với công chúa Yasodhara (Gia Du
Ðà La) và có một người con trai, tên là Rahula (La Hầu La).
Năm 29 tuổi, Ngài rời bỏ cung vàng, vượt sông Anoma (một chi nhánh của
thượng lưu sông Gange - Hằng hà), tầm sư học đạo, sống một cuộc đời du tăng.
Sau 6 năm học hỏi với nhiều bậc đạo sư nỗi tiếng thời đó với nhiều pháp môn tu
tập khác nhau, Ngài cảm thấy vẫn còn nhiều vướng mắc, và vẫn không tìm ra được
con đường giải thoát tối hậu.
Cuối cùng, Ngài quyết định không sống lệ thuộc vào một vị đạo sư, một pháp
môn nào cả. Từ bỏ lối tu khổ hạnh hành xác, Ngài bắt đầu đi khất thực trở lại
để phục hồi sức khỏe, và tham thiền dưới cội cây assatha (ficus religiosa),
sau nầy được gọi là cây bồ đề (bodhi), trong vùng Gaya - ngày nay được gọi là
Bodhgaya, Bồ Ðề Ðạo Tràng, bên bờ sông Neranjara (Ni Liên Thuyền).
Ngài lập tâm nhất quyết nỗ lực cùng tột bất thối chuyển: "Dù chỉ còn da,
gân và xương, máu và thịt đã cạn khô và tan biến, ta nguyện không xê dịch chỗ
nầy cho đến khi chứng ngộ Toàn Giác (samma-sambodhi)". Vào đêm rằm tháng tư
năm 588 trước CN, Ngài nhập định tham thiền, quán niệm hơi thở và chân tâm, an
trú vào bốn tầng thiền-na (jhana), rồi hướng tâm hồi tưởng các tiền kiếp. Vào
cuối canh một đêm đó, Ngài chứng đạt trí tuệ "túc mạng minh". Sau đó,
Ngài hướng tâm quán triệt nguyên do đưa đến sự sinh tử của mọi loài, về luật
nghiệp quả, và vào cuối canh hai, Ngài chứng đạt "thiên nhãn minh". Sau
đó, Ngài quán triệt sự chấm dứt các lậu hoặc, quán triệt Khổ, Khổ tập, Khổ
diệt, và con Ðường diệt khổ (Tứ Diệu Ðế), và chứng đạt "lậu tận minh".
Lậu đã tận diệt, tuệ đã toàn khai, Ngài quán triệt chân lý và giác ngộ, trở
thành một vị Chánh Ðẳng Chánh Giác (Samma Sambuđho), và được xem như là đã
nhập Niết Bàn Hữu Dư Y (Sopadisera Nibbana Dhatu), nghĩa là trạng thái tâm trí
hoàn toàn giải thoát nhưng thân xác vẫn còn tồn tại. Lúc đó Ngài được 35 tuổi.
Bài giảng đầu tiên của Ngài là bài kinh Chuyển Pháp Luân
(Dhammacakkappavattana), giảng cho 5 anh em Kondanna (Kiều Trần Như), đệ tử
đầu tiên, tại vườn Lộc Uyển gần thành Benares (Ba Na Lại). Ðây là bài giảng
tóm tắt tinh hoa của đạo giải thoát, là một Trung Ðạo (Majjhima Patipada)
không lệ thuộc vào hai cực đoan của việc nô lệ dục lạc và việc hành khổ thân
xác, bao gồm bốn sự thật phổ quát (Tứ Diệu Ðế) và con đường diệt khổ gồm 8
phần chính yếu (Bát Chánh Ðạo) [2].
Từ đó trong suốt 45 năm, Ngài đi truyền giảng con đường giải thoát, thu
nhận đệ tử, có người xuất gia theo Ngài và lập thành Tăng đoàn (Sangha), có
người cũng còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của Ngài là vùng
Ðông Bắc Ấn Ðộ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo các nhánh sông thượng nguồn
sông Gange (sông Hằng).
Ngài thường được gọi là Ðức Phật Cồ Ðàm (Buddha Gotama). Chữ "Phật" là
tiếng gọi tắt của "Phật Ðà", phiên âm từ chữ Phạn "Buddha" - người bình dân
Việt Nam có nơi gọi là ông Bụt - nghĩa là người đã giác ngộ (Giác Giả) . Trong
các kinh sách ghi lại, Ngài thường tự gọi mình là Tagatatha (Như Lai). Trong
kinh điển, Ðức Phật có 10 danh hiệu: ng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Thế Tôn, Phật [1].
Ngài giảng rất nhiều chủ đề cho nhiều hạng người khác nhau, tùy theo tâm
tính, căn cơ, hoàn cảnh của họ, để giúp họ thăng tiến trên đường tu tập. Thực
tế nhất là 37 phẩm trợ đạo (hay 37 phần bồ đề) mà Ngài đã tóm tắt lại trong
những ngày cuối của cuộc đời tại thế của Ngài: 4 Niệm xứ, 4 pháp Chánh cần, 4
điều Như ý, 5 Căn, 5 Lực, 7 Giác chi, và 8 Chánh đạo [3].
Ðức Phật tịch diệt năm 543 trước CN, lúc Ngài 80 tuổi, tại khu rừng cây
sala, gần thành Kusinara (Câu Thi La). Ðêm đó, sau khi nhập và xuất tám bậc
thiền, Ngài nhập Niết Bàn Vô Dư Y (Anupadisera Nibbana Dhatu) - hay Ðại Niết
Bàn (Maha Parinibbana) - nghĩa là Niết Bàn với thân xác không còn mầm sống tồn
tại trong thế gian. Lúc đó là canh cuối cùng của đêm rằm tháng tư. Lời dạy
cuối cùng của Ngài là:
"Nầy các vị Tỳ kheo, nay Ta khuyên bảo chư vị: tất cả các pháp hữu vi
đều vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật" [3].
Các bài giảng của Ngài được kết tập lại thành bộ Kinh Tạng (Sutta Pitaka).
Các điều giới luật cho các vị tu sĩ được kết tập thành bộ Luật Tạng (Vinaya
Pitaka). Ngoài ra còn nhiều bài giảng đặc biệt khác mà về sau nầy được đúc kết
lại trong bộ A Tỳ Ðàm (Abhidhamma Pitaka). Ba tạng nầy kết hợp thành bộ Tam
Tạng Kinh Ðiển của Phật Giáo ngày nay.
Tham Khảo
[1] Narada Mahathera (1980), The Buddha and His Teachings, Buddhist
Publication Society, Sri Lanka (Ðức Phật và Phật Pháp, bản dịch Việt ngữ của
Phạm Kim Khánh)
[2] Thích Nhất Hạnh (1992), Ðường Xưa Mây Trắng, Lá Bối,
France
[3] Sister Vijira and Francis Story (1988), The Maha Parinibbana
Sutta, Buddhist Publication So-ciety, Sri Lanka.
Source :
www.budsas.org