Pháp
Môn Lạy Phật
Thích
Trí Hoằng
Trong truyền thống tu
tập Việt Nam, pháp môn
Lạy Phật là một pháp môn
rất phổ biến được thực
tập trong hàng xuất gia
cũng như tại gia. Trong
các chùa cứ vào những
ngày mười bốn và ba mươi
âm lịch đều có các buổi
lạy Hồng Danh Sám Hối.
Bây giờ tại hải ngoại
chúng ta cũng vẫn tiếp
tục tu tập theo truyền
thống đó. Như thế đủ
chứng minh tính mầu
nhiệm của pháp môn này.
Tuy nhiên, lâu nay chúng
ta thực tập thấy có an
lạc và lợi ích thiết
thực cho thân và tâm,
nhưng không hiểu rõ
nguyên nhân tại sao.
Trong bài này chúng ta
sẽ cố gắng tìm hiểu
những lý do nào khiến
pháp môn này mang đến
cho chúng ta những lợi
lạc mầu nhiệm đó.
Sau thời gian dài sống
tại Bắc Âu cũng như Đông
Bắc Hoa Kỳ là những vùng
rất lạnh của thế giới,
chúng tôi nghiệm ra tại
đây có rất nhiều người
mắc phải những chứng
bệnh thuộc về phong thấp
như đau nhức khớp xương.
Nhất là những người lớn
tuổi đến từ các nước
thuộc khu vực nhiệt đới.
Bác sĩ khuyên mọi người
nên tập thể dục. Ai cũng
thấy lời khuyên đó đúng.
Vì sang đây chúng ta ít
khi có cơ hội để vận
động thân thể cho máu
huyết lưu thông.
Chúng ta ngồi quá nhiều,
vừa bước ra khỏi nhà đã
leo lên xe, đến sở làm
phải ngồi suốt buổi.
Ngày này sang ngày nọ cứ
như thế. Thêm vào đó,
qua sự ăn uống cơ thể
chúng ta tiêu thụ quá
nhiều độc tố. Từ đó đủ
các chứng bệnh về tim
cũng như ung thư phát
sinh.
Tuy thế việc tập thể dục
vẫn là vấn đề nan giải.
Với những người trẻ tuổi
ít gặp khó khăn hơn. Còn
đối với những người lớn
tuổi, đây quả thật là
một khó khăn lớn. Vì văn
hoá khác biệt, các cụ ta
thấy ngại ngùng trong
việc đi bơi đi lội, đi
đến nhà tập thể dục để
luyện tập thân thể.
Đó là chưa kể vấn đề di
chuyển cũng như ngôn ngữ,
vì phần lớn các cụ không
biết lái xe và tiếng tăm
không thông. Còn việc đi
bộ cũng không dễ dàng
thực hiện được, vì vào
mùa ấm còn đi lại chút
đỉnh, chứ những ngày
lạnh chẳng dám hé cửa,
đừng nói chuyện ra ngoài
đường.
Nếu đi không khéo, trợt
tuyết té thì khổ thân.
Nói tóm lại là đành chịu
chết. Các vị than phiền
và không biết phải giải
quyết vấn đề như thế nào.
Chúng tôi chỉ khuyên các
cụ hãy cố gắng thực tập
pháp môn Lạy Phật mỗi
ngày, sáng cũng như tối.
Các cụ theo đó thực tập.
Vài tuần lễ sau đã có
người đến chùa cám ơn,
nhờ thực tập pháp môn
Lạy Phật đã khỏi bệnh.
Có vị cho chúng tôi hay
sau mấy tuần lạy Phật,
bây giờ đã hết luôn
chứng đau lưng. Chứng
bệnh mà vị đó đã bị từ
nhiều năm nay, uống
thuốc gì cũng không
khỏi.
Các vị khác cho hay bây
giờ ngủ ngon giấc không
mộng mị, các chứng tê
nhức cũng đã hết. Còn
những người trung niên
cũng cho biết họ đã bán
các dụng cụ tập thể dục,
vì cứ mỗi sáng sau khi
lạy hai mươi phút mồ hôi
toát ra như tắm, như thế
thì hơn thể dục nhiều.
Trong Các Truyền Thống
Phật Giáo
Pháp môn Lạy Phật không
phải chỉ có các Phật tử
thuộc truyền thống Tịnh
Độ thực hành, nhưng
phương pháp này cũng
được các truyền thống
khác tu tập.
Với Phật Giáo Tây Tạng
vấn đề lạy Phật là một
phương pháp tu căn bản.
Trong truyền thống này,
khi bắt đầu những kỳ
nhập thất dài hạn, thông
thường kéo dài ba năm ba
tháng ba ngày, các vị
lạt-ma lạy một trăm ngàn
lạy. Mỗi ngày từ sáng
đến tối chỉ thực hành
lạy Phật. Trung bình mỗi
ngày lạy được ba ngàn
lạy, và cứ lạy liên tục
như thế trong ba tháng
mười ngày thì đủ một
trăm ngàn.
Có người thắc mắc không
hiểu lạy như thế có lợi
ích gì? Vấn đề này chúng
ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ
trong phần sau. Đại khái
chúng ta có thể hiểu đây
là giai đoạn chuẩn bị
cho thời gian "hạ thủ
công phu" để nỗ lực tinh
tấn trên con đường khai
triển tuệ giác. Sự chuẩn
bị này được chú trọng
trên cả hai phương diện
thân và tâm.
Sau giai đoạn lễ lạy đó,
tâm hồn hành giả thơ
thới, thân thể tráng
kiện. Khi đó vị hành giả
cảm thấy như mình được
tái sinh từ thể xác đến
tinh thần. Cần hội đủ
những điều kiện cần
thiết đó thì công cuộc
khổ tu của những tháng
năm đến mới thành tựu
viên mãn.
Chúng ta cũng nên biết
rằng, Tây Tạng là một
nước ở trên núi Hy Mã
Lạp Sơn, một dãy núi cao
nhất thế giới, tuyết phủ
quanh năm. Trong điều
kiện khí hậu khắc nghiệt
như thế, nếu không có
một thân thể cường tráng
một ý chí mãnh liệt thì
khó có thể tiếp tục công
việc tiến tu.
Do đó sự hành trì lễ lạy
là một phương pháp tốt
để đạt những mục tiêu
ban đầu. ngoài ra các
Phật tử Tây Tạng cũng
thực hành phương pháp
"nhất bộ nhất bái"
(nghĩa là: đi một bước
lạy một lạy) trong các
cuộc hành hương chiêm
bái các thánh tích như:
Cung Potala nơi Đức Đạt
Lai Lạt Ma ngự, các tu
viện nổi tiếng nơi có
bảo tháp các vị tổ sư...
Quang cảnh rất cảm động
chung quanh Bồ Đề Đạo
Tràng, nơi Đức Phật
Thành Đạo, là hàng trăm
vị Lạt-ma cùng các Phật
tử Âu Mỹ thực hành pháp
môn lễ lạy. Họ cứ lạy từ
sáng đến chiều và từ
ngày này sang ngày nọ.
Cách lạy của người Tây
Tạng cũng khác hơn chúng
ta là họ lạy nằm dài hết
cả người xuống đất. Tấm
ván dùng để lạy trở nên
bóng loáng và chỗ hai
bàn tay chống xuống để
đẩy dài người ra bị lõm
sâu xuống. Điều đó chứng
tỏ họ đã lạy không biết
bao nhiêu ngàn vạn lạy
rồi.
Qua những khảo sát đó,
chúng ta hiểu được: Tại
sao dân Tây Tạng có thể
sống khoẻ mạnh trên đỉnh
núi tuyết, nơi lạnh lẽo
và thiếu dưỡng khí? Làm
thế nào để có được tín
tâm vững chải nơi Tam
Bảo? Làm sao để thành
đạt kết quả tu tập?
Những thành tựu đó có
thể nói phần lớn nhờ bởi
công phu lễ bái. Chính
việc Lạy Phật đã giúp
cho dân Tây Tạng sống
khoẻ mạnh từ thể chất
đến tinh thần, có tín
tâm kiên cố nơi Tam Bảo,
và thành tựu sự nghiệp
tu chứng. Ngày nay dân
tộc nhỏ bé yếu kém đó đã
mang Phật Pháp truyền bá
khắp nơi.
Tại Trung Quốc, các Tông
Phái Phật Giáo từ Tịnh
Độ, Thiền, Thiên Thai,
đến Luật Tông, Mật Tông
v.v.. đều chú trọng vào
việc Lạy Phật như một
hành trì căn bản. Trung
Quốc có những cuốn kinh
dành riêng cho việc lễ
lạy như:
Kinh Hồng Danh:
108 lạy, kinh sám hối
căn bản.
Kinh Ngũ Bách Danh:
500 lạy, gồm tên của 500
vị Phật hay 500 danh
hiệu của một vị Phật hay
Bồ Tát.
Kinh Thiên Phật:
1.000 lạy, danh hiệu của
một ngàn vị Phật.
Kinh Ngũ Thiên Phật:
5.000 lạy, danh hiệu của
năm ngàn vị Phật.
Kinh Vạn Phật:
10.000 lạy, danh hiệu
của mười ngàn vị Phật.
Thủy Sám: sách
sám hối, vừa tụng vừa
lạy, do ngài Ngộ Đạt
soạn.
Lương Hoàng Sám:
bộ sách sám hối, do hoà
thượng Chí Công đời vua
Lương Võ Đế soạn để sám
hối cho hoàng hậu Hy
Thị.
Qua các kinh đó chúng ta
thấy Phật Giáo Trung
Quốc đã hành trì pháp
môn Lạy Phật nghiêm túc
như thế nào.
Ngày xưa các chùa đều
được xây dựng nơi núi
cao rừng sâu, tránh cảnh
thị thành náo nhiệt để
các hành giả chuyên chú
quán chiếu nội tâm.
Các ngôi chùa như Thiếu
Lâm Tự được xây dựng
trên núi Thiếu Thất. Để
có đủ sức khoẻ chống lại
sơn lam chướng khí thú
dữ, các thiền sinh phải
luyện tập võ thuật và
khí công kèm với sự tu
tập phát huy tuệ giác.
Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma là
người đã khai sáng Thiền
Tông tại Trung Quốc,
cũng là tổ sư sáng lập
võ thuật tại đây. Các tổ
sư đã ý thức rõ ràng sự
quan hệ giữa thân và
tâm. Sự thành tựu tuệ
giác phải song hành với
sự tráng kiện của thân
thể.
Khí công và nội lực là
những yếu tố quan trọng
trong việc phát triển
tâm linh. Không thể nào
có được ý chí dũng mãnh
trong một thân thể bệnh
hoạn. Từ đó các tổ đã
kết hợp hai truyền thống
tu luyện của Ấn Độ và
Trung Quốc, truyền thống
yoga cũng như các phương
pháp luyện công luyện
khí của võ thuật được
kết hợp nhuần nhuyễn để
chế tác pháp môn Lạy
Phật.
Như thế chúng ta thấy
Lạy Phật là kết quả tiêu
biểu cho những kinh
nghiệm tu tập thoát thai
từ sự dung hợp sâu sắc
tinh hoa của các nền đạo
học Đông phương. Một vị
thánh tăng trong thời
đại chúng ta là ngài Hư
Vân (1840 -1959), ngài
đã hành trì "tam bộ nhất
bái" (ba bước một lạy)
từ Phổ Đà Sơn về Ngũ Đài
Sơn, khoảng đường dài
bằng từ New York về
Seatle.
Trong cuốn Tự Truyện
ngài đã kể lại những
kinh nghiệm tu chứng của
ngài trong thời gian lễ
bái đó. Ngài có được
những khả năng phi
thường như nhìn xuyên
qua vách, nghe được
tiếng từ xa, biết việc
vị lai ...
Lúc bị chính quyền cộng
sản tra khảo dã man,
người cai ngục tưởng
ngài chết rồi. Nhưng
sáng hôm sau thấy ngài
ngồi dậy như trước đó
chẳng có chuyện gì xảy
ra. Ngài thọ 120 tuổi.
Ngày nay tại Tổ Đình Vân
Môn tại Quảng Đông Trung
Quốc, mỗi sáng chư tăng
sau thời công phu bắt
đầu lạy ba trăm lạy.
Phật Giáo Việt Nam cũng
như Nhật Bản và Đại Hàn
chịu ảnh hưởng sâu đậm
Phật Giáo Trung Quốc. Do
đó trong phương pháp
hành trì rất chú trọng
về lễ lạy.
Phật tử Việt Nam đến
ngày nay vẫn duy trì
mạnh mẽ phương pháp tu
tập đó. Vào những ngày
mười bốn và ba mươi âm
lịch, chúng ta có những
thời Hồng Danh Sám Hối.
Chúng ta cũng lạy Ngũ
Bách Danh, Thiên Phật,
Vạn Phật... Ngoài ra, có
người cũng phát nguyện
lạy từng chữ trong các
bộ kinh lớn như Pháp
Hoa, Bát Nhã, Niết Bàn,
Hoa Nghiêm...
Trước năm 1975, lúc
chúng tôi tu tập tại
Chùa Già Lam, Gia Định,
mỗi sáng sau thời công
phu, hòa thượng Trí Thủ
xướng hồng danh chư Phật
chư Tổ để mọi người lễ
lạy. Giọng ôn sang sảng
vang dội khắp chùa.
Thỉnh thoảng ôn nhập
thất. Trong suốt thời
gian đó ôn trì niệm và
lễ bái hồng danh Đức
Phật A Di Đà. Những năm
cuối đời ôn vẫn kiên trì
tu tập pháp môn đó.
Qua cuộn băng cassette
thu tại Chùa Già Lam vào
khoảng năm 1982, chúng
tôi vẫn còn nghe giọng
xướng trầm hùng của ôn
và Đại Chúng. Tại Hoa
Kỳ, chúng tôi được biết
Tu Viện Kim Sơn tại Bắc
Ca-li thực hành chuyên
cần công phu bái sám.
Đại Chúng lạy mỗi ngày
hai thời và mỗi thời
khoảng hai trăm lạy.
Cũng như rất nhiều các
Chùa Việt Nam khác tu
tập pháp môn lễ bái này.
Tác phẩm nổi tiếng về sự
hành trì pháp môn Lạy
Phật này là cuốn Khóa Hư
Lục của vua Trần Thái
Tôn soạn. Nhà vua soạn
bộ sách sám hối này cũng
trong tâm trạng thành
khẩn như ngài Ngộ Đạt
sám hối nghiệp chướng
nhiều đời, như vua Lương
Võ Đế sám hối quả báo
của hoàng hậu.
Như chúng ta biết vua
Trần Thái Tông là vị vua
đầu tiên của triều Trần.
Dưới áp lực của thái sư
Trần Thủ Độ, cũng là chú
của vua, bắt vua phải
làm những việc loạn
luân, thất nhân tâm như
ruồng bỏ vợ, lấy chị dâu
đang mang thai, cùng
chứng kiến những cảnh
tàn sát tôn thất nhà Lý.
Không chịu nổi những
cảnh tàn ác đó, nhà vua
bỏ kinh thành vào núi để
xin xuất gia.
Phù Vân quốc sư đã
khuyên nhà vua hãy trở
về gánh lấy trọng trách
để tìm cách chuyển đổi
chính sách bạo tàn thành
chính sách khoan hòa
nhân đạo, cũng như theo
đuổi con đường tu
tại gia. Nhà vua đã trở
về. Sách Khóa Hư Lục đã
được soạn ra trong hoàn
cảnh đó.
Trong đó nhà vua đã soạn
những bài văn thống
thiết để ngày đêm sáu
thời lễ bái sám hối cho
nghiệp chướng tiêu trừ,
cho quốc thái dân an.
Với ảnh hưởng đạo đức
của vua Thái Tông, triều
Trần đã trở thành một
triều đại quân chủ Phật
Giáo hùng mạnh trong
lịch sử với những chiến
thắng Mông Cổ oanh liệt.
Mông Cổ là đoàn quân
bách chiến bách thắng,
xây dựng một đế quốc
trải dài từ Âu sang á,
chưa bao giờ bị thua
trận.
Sự Lợi ích
Phương pháp Lạy Phật là
kết tinh của những kinh
nghiệm tu tập sâu sắc từ
những truyền thống đạo
học Đông phương. Do đó
những lợi ích mang lại
từ sự hành trì pháp môn
này vô cùng lớn lao. Sự
lợi ích đó đạt được cả
trên hai phương diện
thân xác cũng như tinh
thần.
Về Thân: phương pháp Lạy
Phật mang lại những hiệu
quả sau:
1. Trước hết, động tác
lạy Phật là một phương
pháp thể dục tốt. Với
những cử động nhẹ nhàng,
nhưng tất cả các bắp
thịt trên toàn thân đều
được vận động tối đa.
Khác với lúc tập thể
dục, vì thông thường khi
thể dục chúng ta không
vận động tất cả các bắp
thịt đồng đều cùng một
lúc. Ví dụ: khi đi bộ,
chúng ta vận động nhiều
bắp thịt ở chân. Chỉ có
bơi lội chúng ta mới cử
động toàn thân.
Trong lúc lạy Phật, tất
cả các bắp thịt trên cơ
thể đều hoạt động làm
khí huyết toàn thân lưu
chuyển giúp chúng ta
chữa trị các chứng thấp
khớp, cũng như phòng
ngừa các chứng bệnh hiểm
nghèo khác..
2. Các huyệt đạo quan
trọng trên cơ thể được
tác động. Từ huyệt bách
hội trên đỉnh đầu xuống
đến huyệt đan điền dọc
theo xương sống và các
huyệt ở tay chân.
Chúng ta cảm thấy có một
luồng khí nóng chạy đều
khắp cơ thể và mồ hôi
theo các lỗ chân lông
tuôn ra. Theo y học Đông
phương, một khi các
huyệt đạo trên cơ thể
được tác động, khí huyết
sẽ lưu chuyển và bệnh
tật sẽ tiêu trừ.
3. Sau khi
lạy Phật
xong, hãy ngồi xuống
chừng mười lăm phút,
chúng ta sẽ có cảm giác
an lạc thư thái ngay vì
các huyệt đạo đưọc tác
động. Sự an lạc này rất
sâu sắc, một kinh nghiệm
rất đặc biệt mà chúng ta
chỉ đạt được trong lúc
thiền định. Sự an lạc
này mang lại cho chúng
ta niềm hoan lạc suốt
ngày. Từ đó những phiền
não, những ưu tư, những
đau buồn... cũng nhanh
chóng tan biến.
4. Các trọng huyệt này
tương ứng với các luân
xa trong truyền thống
yoga Ấn Độ. Các luân xa
này nằm dọc theo xương
sống từ đỉnh đầu xuống
đến bàn tọa gồm bảy luân
xa. Một khi được tác
động, các luân xa này
giúp chúng ta khai triển
được những năng lực mầu
nhiệm tiềm tàng trong
mỗi người, tạo điều kiện
thuận tiện cho việc phát
triển tâm linh.
Về Tâm: phương pháp Lạy
Phật là phương pháp điều
tâm để thanh tịnh ba
nghiệp: thân, khẩu và ý
(tư tưởng, ngôn ngữ và
hành động).
Phương pháp này giúp ta:
1. Tiêu trừ nghiệp
chướng: Trong sự sám
hối, thành tâm đảnh lễ
mười phương chư Phật
bằng cả thân tâm của
mình. Quán chiếu sâu xa
nguồn gốc tội lỗi, cùng
bản tánh của tội lỗi.
Quán tưởng hào quang chư
Phật mười phương hiển
hiện trước mắt, cũng như
Phật tánh trong tự tâm
tỏa rạng. Nhờ Phật lực
hộ trì cùng nỗ lực tự
tâm để thanh tịnh ba
nghiệp. Với sự sám hối
đó các ác nghiệp và
chướng duyên đều được
chuyển hóa.
2. Thiện căn tăng
trưởng: trong khi lễ
lạy, hồi hướng cho kẻ
thân người thù đều được
lợi lạc, đều được thành
tựu sự nghiệp giác ngộ
giải thoát. Như thế Bồ
Đề Tâm (thượng cầu Phật
đạo, hạ hóa chúng sinh)
được nuôi dưỡng, lòng từ
bi được phát triển. Sự
lễ bái hàng ngày đem lại
cho chúng ta nguồn an
lạc vô biên. Sự an lạc
này giúp cho phiền não
tiêu tan, sự trầm tĩnh
trở lại trong tâm hồn và
lòng thương cũng phát
sinh đối với người ghét.
3. Đức khiêm cung phát
sinh: trong khi hạ mình
xuống sát đất để lạy
Phật, để thấy những
thành đạt của mình chỉ
là những giọt nước trong
đại dương bao la. Bác
Hoài phát biểu trong
buổi thảo luận Phật
Pháp, để chuyển hóa tâm
kiêu mạn của mình, mỗi
ngày bác Lạy Phật để hồi
hướng công đức về thiên,
về địa, về sư trưởng, về
ông bà cha mẹ... để cảm
nhận trùng trùng ân
nghĩa.
Để thấy sự thành tựu của
mình hôm nay là công ơn
tác thành của nhiều
người. Để từ đó tâm
khiêm nhường phát sinh.
Trong Kinh Đức Phật
thường dạy, tâm khiêm
nhường là cửa ngõ của
trí tuệ và là con đường
đưa đến giải thoát.
Sự Hành Trì
Trong truyền thống Việt
Nam, chúng ta có lạy
Hồng Danh, Ngũ Bách
Danh, Thiên Phật, Vạn
Phật ... Tùy theo hoàn
cảnh và khả năng để áp
dụng cách lễ lạy cho
thích hợp.
Điều quan trọng là sự
hành trì đều đặn. Nếu
chưa quen chúng ta có
thể bắt đầu bằng ba mươi
lạy, rồi sau đó tăng dần
cho đến một trăm lẻ tám
lạy (để trừ một trăm lẻ
tám phiền não). Nếu có
băng Hồng Danh thì mở
băng và theo lời xướng
danh hiệu Phật trong
băng để lạy. Chúng ta có
thể lạy mỗi ngày một hay
hai lần.
Cách đơn giản nhất,
chúng ta lạy theo hơi
thở. Cứ hít vào chúng ta
đứng lên và thở ra chúng
ta lạy xuống. Cứ lạy
chậm rãi. Mỗi lạy chúng
ta niệm một danh hiệu
Phật và đếm một, cứ như
thế cho đến đủ số. Hoặc
chúng ta có thể theo dõi
đồng hồ và lạy đủ thời
gian ấn định thì ngưng.
Hoặc mười lăm phút, hai
mươi phút hay nửa giờ.
Đó là những phương cách
đề nghị để chúng ta tùy
nghi thực hành.
Sự lễ lạy có thể thực
hiện bất kỳ chỗ nào.
Miễn là chúng ta có được
khoảng không gian bằng
chừng chiếc chiếu là đủ
để lạy rồi. Tốt nhất là
trước bàn Phật, nếu
không thì ở chỗ nào cũng
được, miễn tâm thành là
được. Ngay cả trong
phòng ngủ, mỗi sáng lúc
thức dậy hay mỗi tối khi
đi ngủ chúng ta có thể
thực tập.
Khi lạy hai tay chắp
ngang trán, đưa xuống
ngực rồi lạy xuống sát
đất. Điều này biểu tượng
cho "thân tâm cung kính
lễ" (đem thân đoan
nghiêm và tâm thành kính
để lễ lạy). Lúc lạy
xuống hai tay, hai chân
và trán phải chấm đất
(ngũ thể đầu địa: năm
phần của thân thể đều
chạm đất).
Chúng ta nên đứng thẳng
người rồi lạy xuống, sau
đó đứng thẳng lên. Như
thế các bắp thịt khắp
châu thân được vận động
tốt hơn (trừ khi yếu
chân, có thể quỳ lạy).
Trong khi lạy cố gắng
kết hợp cả ba phương
diện: thân đứng nghiêm
chỉnh cử động nhịp nhàng
hoà hợp, hơi thở đều đặn
miệng niệm danh hiệu
Phật hay Bồ Tát, tâm
quán tưởng đến Phật, Bồ
Tát hay cảnh giới của
chư Phật và Bồ Tát.
Ví dụ: có thể quán tưởng
đến Đức Phật A Di Đà
đang ở trước mắt, hay
cảnh Tịnh Độ chung quanh
ta.
Kết Luận
Tóm lại, phương pháp lạy
Phật là một phương pháp
rất đơn giản, nhưng mang
lại những lợi ích rất
lớn. Ai tập cũng được,
bất kỳ nơi đâu và không
cần phải sắm dụng cụ gì
cả. Đây là kết tinh của
những kinh nghiệm tu
luyện quý báu của chư tổ,
đã kết hợp các phương
pháp tu tập của Thiền
gia và vũ thuật gia để
chế tác thành.
Sự thực hành pháp môn
này mang lại lợi ích rõ
rệt cho cả thân lẫn tâm.
Thân thể cường tráng
chữa trị và phòng ngừa
các chứng bệnh hiểm
nghèo như bệnh tim, áp
huyết cao, ung thư..
Tinh thần an lạc thư
thái. Sống an vui hạnh
phúc trong hiện tại. Tạo
điều kiện thuận tiện
khai triển khả năng tâm
linh vô biên để tiến tới
giải thoát hoàn toàn.
Đây là một pháp môn mầu
nhiệm, những niềm hoan
lạc sâu sắc chúng ta
kinh nghiệm được trong
lúc hành trì là những
bước tiến vững chắc trên
bước đường tu tập. Qua
những thành tựu đó giúp
chúng ta tăng trưởng tín
tâm đối với những pháp
môn chư tổ truyền lại.
Lời Phật Dạy
Mười Công Đức Lạy Phật
1.-
Được sắc thân tốt đẹp.
2.-
Nói ra điều chi ai cũng
tin dùng
3.-
Không sợ sệt giữa đông
người.
4.-
Được chư Phật giúp đỡ.
5.-
Đầy đủ oai nghi lớn lao.
6.-
Mọi người đều nương theo
mình.
7.-
Chư Thiên cung kính.
8.-
Đủ phước đức lớn.
9.-
Lúc lâm chung được vãng
sanh.
10.-
Mau chứng quả Niết Bàn.
|