Ý
NGHĨA CỦA TỤNG KINH I. Ý
Nghĩa của Chữ "Kinh" Trong suốt cuộc đời hoằng pháp,
đức Phật không hề viết sách. Tất cả kim ngôn hay lời dạy của Ngài được
truyền thừa lại nhờ vào truyền thống tụng đọc thuộc lòng, của các vị đệ
tử Ngài, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, về sau mới được ghi chép
lại thành dạng văn bản, gọi là Kinh. Các
nhà Phật học truyền thống Trung Quốc giải thích rằng Kinh là "khế hợp."
Khế ở đây bao gồm hai phạm trù khế lý và khế cơ. Khế lý là nội dung ý
nghĩa của những lời giảng dạy phải được đặt trên nền tảng Trung đạo,
không thiên lệch vào sự chấp mắc nào. Khế cơ là sự thể hợp với từng căn
cơ đối tượng. Khế lý và khế cơ có giá trị xuyên suốt thời gian và không
gian. Theo nghĩa này, Kinh là chân lý siêu tuyệt của các chân lý mặc ước
và công ước. Tác
giả của Luận Phật Địa còn đi xa hơn, khi giải thích: "Khế là phù
hợp với tinh thần giáo lý mầu nhiệm của các đức Phật trong ba thời, đồng
thời còn đáp ứng một cách sát sao với sự lãnh hội của đương cơ tiếp nhận
giáo pháp ấy." Theo đó, sự khế lý mà thiếu khế cơ hay khế cơ mà không
khế lý thì chẳng được gọi là Kinh. Các
nhà chú sớ Kinh điển của Trung Quốc không dừng lại tại đó, còn đi sâu
vào việc khai thác sự đa dạng về ý nghĩa của Kinh. Theo các nhà sớ giải,
Kinh gồm có năm nghĩa: (1) pháp bổn, (2) vi phát hay xuất sanh, (3)
tuyền dũng, (4) thằng mặc, (5) kết man, (6) hiển thị. Các cách định
nghĩa chữ Kinh như vừa nêu tuy có phần phong phú, đa dạng, nhưng đã đi
quá ý nghĩa từ nguyên của chữ Kinh trong Phật giáo, thời kỳ nguyên thủy.
Trong đạo Phật, ý nghĩa chữ Kinh
ban đầu rất đơn giản. Kinh, tiếng Sanskrit viết là sūtra, và
tiếng Pali viết là sutta, chỉ có nghĩa chính là những lời giảng
dạy của đức Phật về đạo đức, chân lý và giải thoát. Nó liên hệ đến sự
nghe, nghe những lời dạy của đức Phật. Nói cách khác, Kinh là những lời
dạy của Phật hay của các vị Bồ-tát, A-la-hán. Trong ý nghĩa rộng hơn,
chữ Kinh còn ám chỉ cho (1) các thể loại văn học Phật giáo, hay (2) Tạng
Kinh (Sutta Piṭaka), hay chỉ chung cho (3)
Ba kho tàng văn học Phật giáo (Kinh, Luật, Luận). Kinh là sách ghi chép
những lời dạy về chánh pháp, những phương thức hành trì hay các pháp môn
được đức Phật và các vị thánh đệ tử của ngài giảng
dạy. Các
vị thánh đệ tử đầu tiên của đức Phật là nhóm năm anh em Kiều-trần-như,
mười vị đệ tử lớn và 1250 vị tỳ-kheo đều có nhiều cuộc đối đáp về đạo lý
và con đường tu tập với các người theo Bà-la-môn giáo và các tôn giáo
bấy giờ. Các pháp thoại mang tính cách xiển dương và truyền bá đạo pháp
như vậy, có giá trị tương đương với lời Phật dạy trong nhiều trường hợp
cụ thể. Nên các pháp thoại đó cũng được xem là kinh, tức một dạng khác
của lời Phật dạy. Các bài Kinh loại này có mặt khắp trong các Kinh điển
Phật giáo của Nguyên Thuỷ và Đại thừa. Như
vậy, "Kinh" chỉ chung cho các lời dạy đạo lý hoặc là các pháp thoại do
đức Phật nói cho các hàng đệ tử hoặc người khác, hoặc các pháp thoại của
các vị thánh tăng đối đáp với nhau hay đối với người ngoại đạo. Ý nghĩa
ban đầu của Kinh chỉ đơn giản có thế, dù dưới dạng truyền khẩu hay được
biên tập thành văn bản về sau. Mặt
khác, “Kinh” là một khái niệm bao quát, chỉ chung các lời dạy của Phật
về đạo đức (dhamma) hay con đường tu tập và những phép tắc
(vinaya) liên hệ đến đời sống của cộng đồng tu sĩ sống dưới sự
bảo hộ và hướng dẫn của Phật. Nó hoàn toàn không mang các ý nghĩa như
"pháp bổn," "vi phát," "dũng tuyền," "kết man," "xuất sanh," " hiển thị
" hay ý nghĩa "khế cơ" như các nhà sớ giải Trung Quốc đã phát triển về
sau. Nói như vậy không có nghĩa phủ định tính chất khế cơ trong lời Phật
dạy. Chỉ có con người ứng dụng kinh, giảng dạy Kinh có khế cơ hay không
mà thôi. Nói cách khác tính khế cơ tùy thuộc rất nhiều vào vị pháp sư
qua sự trình bày pháp thoại đến với quần chúng thính giả hơn là bản thân
của pháp thoại đó được biểu hiện dưới hình thức lời nói hay văn tự. Văn
tự hay ngôn ngữ có giới hạn, không thể làm chức năng xứng hợp như chính
con người của đức Phật và các vị đệ tử thánh của Ngài. Ý nghĩa thâm sâu
của Kinh nếu không được vị pháp sư trình bày một cách sáng sủa, chính
xác và hợp đối tượng thì người nghe có thể rơi vào các tình trạng ngộ
nhận, thoái thất đạo tâm và như vậy là mất hết khế cơ. Đặc tính khế cơ
tùy thuộc rất nhiều vào người giảng đạo và người nghe. Thuyết giảng pháp
thoại mà không nắm bắt được đối tượng nghe pháp sẽ có thể dẫn đến tình
trạng làm suy thoái đức tin chánh pháp của người nghe. Ngược lại thuyết
pháp phù hợp đối tượng, làm cho đối tượng thấm nhuần lợi ích và an lạc
thì sự thuyết pháp đó đã thành tựu ý nghĩa khế cơ rồi. Như vậy lợi ích
hay tác hại của một buổi pháp thoại đối với người nghe tùy thuộc rất
nhiều vào phương tiện giảng dạy và phong cách trình bày của vị pháp sư,
chứ không phải là bản thân của Kinh điển văn
tự. Nói
tóm lại, chữ Kinh trong Phật giáo được dùng để chỉ cho lời Phật dạy dưới
hình thức văn tự hay truyền khẩu, có giá trị hướng thượng, phát triển
đạo đức, nuôi lớn thiền định, phát sanh trí tuệ, giúp cho người đọc tụng
đạt được an lạc và hạnh phúc. Kinh điển là ngón tay để chỉ cho chúng
sanh thấy được mặt trăng, là chiếc bè để đưa người sang sông giải thoát.
Bản thân Kinh điển không phải là mặt trăng và cũng không phải là bờ giải
thoát. Mặt trăng ở đây ám chỉ cho chân tâm, Phật tánh và Niết-bàn. Người
đọc tụng và thọ trì cần nương vào lời Kinh để nhận ra được chân tâm,
Phật tánh của mình, cũng như nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng
và nương vào thuyền để sang được bờ bên kia. Sau khi thấy được trăng cần
phải biết quên ngón tay. Sau khi qua được bờ rồi, nên thả thuyền xuống
sông để nó có thể giúp được nhiều người khác muốn sang sông. Đừng có
thái độ chấp thủ và tôn thờ ngón tay đã giúp ta thấy được mặt trăng,
cũng như chiếc bè đã giúp ta qua được bờ bên kia!
II. Ý
Nghĩa của Tụng Kinh Có
nhiều người khi được hỏi "tại sao phải tụng kinh" liền trả lời rằng "vì
tụng Kinh có nhiều phước đức.”
Đối với nhiều Phật tử, tụng Kinh là con đường gặt
hái phước báu cho bản thân, người thân quyến và gia đình mình. Một số
khác thì cho rằng tụng Kinh để được các đức Phật và Bồ-tát phù hộ cho
tai qua nạn khỏi, mua may bán đắc, làm ăn phát tài, cửa nhà thịnh vượng.
Nói chung, tụng Kinh để mang lại phước lộc và thọ cho bản thân và gia
đình. Mặc dù không phản ánh hết ý nghĩa và mục đích của sự tụng Kinh
trong Phật giáo nhưng những câu trả lời như vậy đã biểu trưng cho nếp
nghĩ của nhiều Phật tử. Như vừa nói, Kinh là lời Phật dạy về đạo đức,
chỉ ra các phương thức tu tập, có khả năng chuyển hóa thân tâm, đem lại
hạnh phúc cho mình và người ở đời này và đời sau. Do đó, sự tụng Kinh có
ý nghĩa đạo đức rất lớn. Tụng
Kinh trước nhất là để ôn lại và tư duy về lời Phật dạy, là cách làm cho
pháp âm của Phật lưu truyền mãi trong nhân gian, và để tự nhắc nhở mình
bỏ ác làm lành. Tụng
Kinh còn là một dịp tốt giúp chúng ta ngăn ngừa các tội lỗi, trau dồi và
phát triển ba nghiệp trong sạch. Trong giờ phút tụng Kinh, do chuyên chú
vào lời Kinh, tâm ý của người đọc không có dịp bám víu vào các duyên thế
sự và các phiền não trần lao. Tâm ý của người thọ trì, nhờ đó, trở nên
an tịnh và thuần khiết. Ngay giờ phút tụng Kinh chuyên nhất đó, người
đọc tụng có thể xa lìa được các gốc rễ của khổ đau như tham lam, sân
hận, si mê và các tâm lý tiêu cực, có hại cho tâm tư, tình cảm, nhân
cách và đạo đức của bản thân. Trong tư thế ngồi như hoa sen khi tụng
Kinh, thân thể chúng ta đang từng bước trở nên thanh tịnh, nhờ đó tránh
được tất cả các hành vi xấu ác của thân như giết chóc, trộm cướp, ngoại
tình v.v... Ngoài ra, do miệng đọc tụng lời Kinh, cho nên các lời nói
mang tính chất sai sự thật, lời ác độc, lời thêm bớt và những lời vô
nghĩa không có cơ hội để phát triển. Khi đọc Kinh thì miệng của chúng ta
xướng lên những lời lẽ đạo đức, trí tuệ, nhờ đó chúng ta có cơ hội vun
trồng các hạt giống thiện. Như vậy, trong một hành vi chuyên nhất tụng
Kinh, chúng ta xa lìa được mười nghiệp ác, vốn do thân khẩu ý tạo nên.
Nói cách khác, trong khi tụng Kinh, chúng ta đã huấn luyện ba nghiệp của
mình trở về con đường hiền thiện và đạo đức. Sự tụng Kinh, do đó, đã trở
thành một sự tu tập về thân, khẩu và ý trong đạo
Phật. Tụng
Kinh còn là một pháp môn tu tâm dưỡng tánh, huân tập vào tâm thức các
hạt giống tốt của từ bi, trí tuệ, an vui, thanh tịnh và giải thoát. Tụng
Kinh còn là dịp để tham thiền, quán tưởng, trang trải tình thương bao la
đến với muôn loài, còn là lúc chúng ta hồi hướng công đức lành đến với
tất cả chúng sanh. Tụng Kinh chính là lúc chúng ta một lòng thành kính,
đối trước Tam Bảo, sám hối tất cả các nghiệp xấu, ăn năn các lỗi đã qua,
phát nguyện làm các việc thiện, để hoàn thiện đời sống đạo đức của bản
thân. Tụng
Kinh còn là dịp tốt để chúng ta có thể tìm hiểu, học hỏi, và ứng dụng
lời Phật dạy, vào cuộc sống hằng ngày, đem lại lợi lạc cho mình và
người. Chính sự áp dụng lời
Phật dạy, sau quá trình tư duy và thể nghiệm, giúp người đọc tụng gặt
hái được những điều mong muốn trong cuộc sống, như sự an lạc và hạnh
phúc. Bản thân của sự tụng Kinh vốn không có phước báu, nếu người đọc
tụng không chịu chú tâm vào từng lời Kinh để tìm ra ý đạo sâu xa, mầu
nhiệm ẩn chứa trong đó để mà thực hành. Các hình thức và thói quen tụng
Kinh như để “trả bài” hay làm công cứ “tính điểm” với Phật, hay tệ hơn
là như “máy thâu và phát” lại những lời Phật dạy, rõ ràng không mang lại
kết quả hay lợi ích thực tiễn nào, trái lại còn làm mất thời giờ và công
sức. Kinh điển của Phật là tấm bản đồ, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta
sống đời chân chánh, để gặt hái kết quả hạnh phúc ở đời này và đời sau.
Đọc tấm bản đồ để biết rõ con đường, để đi đúng hướng, để đến đúng nơi
cần đến. Con đường đó là con đường trung đạo hay còn gọi là con đường
thánh gồm tám yếu tố chân chánh: quan điểm chân chánh, tư duy chân
chánh, lời nói chân chánh, hành vi chân chánh, nghề nghiệp chân chánh,
nỗ lực chân chánh, chánh niệm và thiền định chân chánh. Đây là con đường
mà ba đời chư Phật đã đi qua, diệt trừ tận gốc rễ của khổ đau, đạt được
an lạc và giải thoát. Người Phật tử cần phải siêng năng nhớ nghĩ, ứng
dụng con đường “trung đạo” đó để tự cứu độ chính mình, thông qua sự
hướng dẫn của Phật trong Kinh điển. Nói cách khác, tụng Kinh là cách học
hỏi chánh pháp của Phật để ứng dụng chánh pháp đó vào đời sống, đem lại
an lạc và hạnh phúc cho tự thân. Nói chung,
mục đích tụng Kinh trong đạo Phật không phải để “trả bài” hay “tính
công” với Phật, mà là nhằm tìm hiểu chính xác lời Phật dạy, rồi ứng dụng
vào đời sống. Tụng Kinh không phải để cầu nguyện Phật và Bồ-tát gia hộ
cho mình, gia đình và thân quyến tai qua nạn khỏi, thăng quan tiến chức,
làm ăn thịnh vượng, tuổi thọ tăng trưởng, sở nguyện tùy tâm, kiết tường
như ý. Tụng Kinh cũng không phải là dịp để cầu cho mua may bán đắc, hay
mong Phật và Bồ-tát gia hộ cho mình được đầy đủ phước lộc thọ. Tụng Kinh
để trau dồi ba nghiệp thanh tịnh, phát triển các hạnh lành, sống đời đạo
đức, vô ngã và vị tha, để mình và người được an lạc và hạnh phúc. Muốn
được vậy, khi tụng Kinh, người Phật tử phải chí thành, hướng tâm vào nội
dung Kinh, ghi khắc sâu chân lý Phật dạy, ứng dụng vào từng trường hợp
cụ thể của cuộc sống, để khắc phục đau khổ, nhổ sạch gốc rễ của khổ đau
là tham lam, sân hận, si mê. Tụng Kinh như vậy là một sự tu tập: bỏ ác
làm lành, một sự an tịnh ba nghiệp, phát triển các đức tính tốt trong
tâm mình. Tụng Kinh có nhiều lợi ích như thế cho nên người Phật tử phải
chuyên cần tụng niệm lời Phật dạy.
III.
Cách Thức Tụng Kinh Cách
thức tụng Kinh trong Phật giáo rất đa dạng và khác nhau tùy theo từng
truyền thống. Thời đức Phật còn sống, tụng Kinh chỉ đơn thuần là sự
trùng tuyên lại lời Phật dạy, để nhớ sâu hơn về lời Ngài, và nhất là để
ứng dụng vào cuộc sống thường nhật. Dần dà, tụng Kinh đã trở thành một
nghi thức. Trong Phật giáo Bắc tông ngày nay, tụng Kinh đã trở thành một
nghi lễ hẳn hoi, với sự hỗ trợ của các pháp cụ và nhạc cụ, như chuông,
mõ, trống, kiểng, khánh, tang, đẩu v.v… Sự tụng Kinh ở nhiều nơi đã trở
thành một khoá lễ nhạc có âm điệu trầm bổng, du dương, gây nhiều cảm
hứng tốt ở người nghe. Dù theo
truyền thống nào, điểm quan trọng mà người thọ trì Kinh cần chú ý là
tụng Kinh để hiểu và ứng dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống. Do đó,
trong khi tụng niệm, không nên quá chú trọng vào các nghệ thuật tán
tụng, mặc dù nghệ thuật này có thể giúp cho người tụng lẫn người nghe dễ
lắng tâm và phát khởi niềm tin tôn giáo. Một khi thời Kinh trở thành
thời khoá tán tụng thì việc tập trung tâm ý vào lời Kinh để tìm hiểu ý
đạo sẽ trở nên mờ nhạt, và ý nghĩa của tụng Kinh sẽ không còn nữa. Người
đọc tụng cần phải chú trọng vào phần “cốt lõi nhất” của Kinh là nội
dung và nghĩa lý của nó. Không có sự chú tâm thật sâu thì khó
có thể lãnh hội được ý nghĩa nhiệm mầu trong Kinh. Nói cách khác, chỉ
chú trọng đến “nghệ thuật tụng hay tán giỏi” mà không nắm bắt được ý
Kinh thì việc tụng Kinh có thể trở nên vô ích và mất thời giờ.
Người đọc tụng phải giữ ba nghiệp
thanh tịnh, chú tâm hoàn toàn vào nghĩa lý của Kinh, tư duy và liên
tưởng về nghĩa lý đó, để hiểu rõ lời dạy của Đức Phật, biết cách ứng
dụng và hành trì. Bậc cổ đức thường dạy “tụng Kinh giả minh Phật chi lý”
là nhằm vào ý này vậy. Chính sự ứng dụng lời Kinh vào cuộc sống mới thật
sự đem lại phước báo, an lạc và giải thoát cho chúng ta. Do đó, ta không
nên chỉ tụng niệm bằng miệng mà còn phải tụng niệm bằng
tâm. Nói cách khác miệng tụng tâm hành mới chính là tụng Kinh
đúng nghĩa. Nói
tóm lại tụng Kinh không phải là dịp để cầu phước, không phải để trả bài,
không phải để tán tụng, mà là cơ hội tốt để trau dồi ba nghiệp cho thanh
tịnh, an lạc. Tụng Kinh không phải là buổi cầu nguyện, van xin mà là lúc
chúng ta nên chuyên chú, lắng tâm, thực hành thiền định và quán tưởng.
Tụng Kinh còn là cách học hỏi chánh pháp, phát khởi niềm tin chân chánh
về lời Phật dạy. Tụng Kinh để gieo rắc các hạt giống từ bi, trí tuệ vào
trong tâm khảm, để gặt hái hoa trái của an lạc và hạnh phúc ở hiện tại
và tương lai. Tụng
Kinh mang nhiều ý nghĩa hành trì và đạo đức tích cực như thế, phàm làm
đệ tử Phật phải nên siêng năng đọc tụng Kinh điển để ngọn đèn từ bi và
trí tuệ của đức Phật tỏa sáng sự sống của chúng ta và tất cả chúng
sanh.
Source : www.daophatngaynay.com |