Phật Pháp căn bản | Kinh | Luận |
---|---|---|
Pháp Luận | Pháp Hành | Truyện ngắn |
A-La-HánA-La-Hán là người đã trừ bỏ, diệt sạch hoàn toàn 10 kiết sử (phiền não) gồm: Thân Kiến, Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ, Dục ái, Sân Hận, Sắc ái, Vô sắc ái, Mạn, Trạo cử, Vô minh.
Đặc trưng của vị A-La-Hán Khi một người đạt được quả vị A-La-Hán, chánh trí khởi lên, vị ấy tự biết rõ mình đã hoàn toàn giải thoát khỏi mọi phiền não, lậu hoặc mà không cần ai phải chỉ điểm, xác nhận. Giống như một người uống nước nóng hay lạnh tự biết rõ ràng. Vị thánh A-La-Hán còn được gọi là vị thánh Vô học, bởi vì các ngài đã hoàn thành công việc tu tập của mình, đã làm xong mục đích tối thượng của một người xuất gia tu tập là đạt Niết Bàn giải thoát, các ngài không còn cần phải tu tập, đoạn trừ phiền não hay làm gì thêm nữa. Còn các bậc thánh thấp hơn như Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn được gọi là vị thánh Hữu học, bởi vì các ngài chưa đạt đến chặng cuối của con đường giải thoát, vẫn còn phải học hỏi, tu tập. Các bậc A-La-Hán là những vị đã viên mãn, thành tựu trọn vẹn con đường tu tập Giới-Định-Tuệ nên thân hành, khẩu hành, ý hành đều thanh tịnh. Về thân hành, các ngài không bao giờ có những hành vi xấu ác như sát sinh, trộm cắp, tà dâm hay những hành vi không đẹp, không phù hợp về mặt đạo đức. Về khẩu hành, các ngài không nói những lời không đúng đắn như nói dối, nói chia rẽ, nói lời độc ác, xúc phạm kẻ khác, không nói những chuyện phù phiếm, vô ích. Các ngài chỉ nói những điều liên hệ đến Chánh Pháp, giải thoát, tu tập đời sống Phạm hạnh. Về ý hành, các ngài không còn những ý niệm tham-sân-si điên đảo giống như chúng sinh; các ngài không còn những vọng tưởng, khao khát về dục vọng, không còn ham thích đối với các khoái lạc, cảm giác sung sướng, dễ chịu. Các ngài không còn những suy nghĩ về hại mình, hại người. Khi gặp các khổ cảnh, các ngài cũng không khởi lên cảm giác khó chịu, tức giận. Một vị A-La-Hán không còn bị tám gió chi phối. Bởi các ngài đã trực nhận tính chất biến đổi, sinh diệt không ngừng (vô thường) và bất toại nguyện, không như ý (khổ) của tất cả mọi sự vật trên đời. Các vị A-La-Hán vẫn có những hoạt động như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ nghỉ, đại, tiểu tiện, như người bình thường. Tuy nhiên, khác biệt giữa các vị A-La-Hán với người phàm là các ngài khi làm việc gì, nói gì cũng đều có sự chánh niệm, tỉnh giác cao độ, từ lúc thức cho đến khi ngủ các ngài đều duy trì sự Chánh Niệm liên tục. Một vị đắc quả A-La-Hán khi chưa hết tuổi thọ, còn sống với thân Ngũ Uẩn được gọi là Hữu Dư Niết Bàn, tức là ngài vẫn còn phải chịu những định luật tự nhiên như đau nhức, bệnh tật, hay các cảm thọ về thân thể. Hoặc các ngài cũng có thể phải chịu đựng các quả báo xấu do hành vi bất thiện trong quá khứ. Ví dụ như Đức Phật bị nhức đầu trong 3 ngày do trong tiền kiếp ngài từng gõ đầu một con cá, hay trước khi nhập Niết Bàn ngài bị bệnh kiết-lỵ. Hoặc trưởng lão Mục-Kiền-Liên trong đời quá khứ rất lâu từng phạm nghiệp giết cha mẹ, nên trước khi ngài viên tịch, nghiệp này trổ quả và ngài bị ngoại đạo đánh chết. Tuy bị bệnh tật, đau nhức về thân chi phối, nhưng Đức Phật và các vị A-La-Hán không còn bị dính mắc vào nó. Các ngài không vì bệnh tật, đau đớn mà khởi tâm bất thiện như khó chịu, tức giận (sân), hay mong muốn mau hết bệnh, mong muốn đừng bị bệnh (tham), không có sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của cơn đau (si). Khi vị A-La-Hán hết thọ mạng, nhập Đại Bát Niết Bàn (Vô Dư Niết Bàn) thì vĩnh viễn không còn tái sinh trở lại vào bất kỳ cảnh giới nào; và không còn bị thân ngũ uẩn chi phối. Các vị A-La-Hán có thể có các năng lực thần thông như Tam Minh, Lục Thông. Tuy nhiên, các ngài không bao giờ phô trương, hay biểu diễn những khả năng đó trước quần chúng để được danh tiếng, ảnh hưởng, hay nhằm mục đích kêu gọi người khác theo đạo Phật. Bởi vì, thần thông dù có vẻ phi phàm, gây tò mò đối với nhiều người như thực tế nó không giúp ích cho chúng sinh nhận ra chân lý, thoát khỏi khổ đau, phiền não. Ngược lại, việc dính mắc, tham luyến đối với thần thông là một cản trở cho việc tu tập giác ngộ. Hơn nữa, đạo Phật là đạo trí tuệ, chứ không phải tin tưởng một cách mù quáng, mê tín. Cuối cùng, ngoài những người đã thật sự chứng A-La-Hán và tự tuyên bố về Chánh trí giải thoát của mình thì chỉ có Đức Phật mới có đủ trí tuệ, khả năng để tuyên bố một người chứng quả hay chưa, người ấy chứng quả gì, Tu-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, hay A-La-Hán. Ngay cả các vị A-La-Hán thượng thủ như ngài Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền Liên cũng không tùy tiện phán đoán, hay đưa ra nhận định về quả vị tu chứng của người khác. Con đường tu tập Con đường tu tập căn bản để đạt được bất kỳ quả vị nào trong Tứ Thánh Quả đều là nhờ Giới-Định-Tuệ. Một người đắc được quả Dự Lưu (Tu-Đà-Hoàn), Nhất Lai (Tư-Đà-Hàm) là thành tựu trọn về giới, một phần về định, một phần về tuệ. Quả vị Bất Hoàn (A-Na-Hàm) là nhờ thành tựu trọn vẹn về giới, trọn vẹn về định và một phần về tuệ. Và cuối cùng, quả vị A-La-Hán là nhờ thành tựu trọn vẹn về giới, định và tuệ. Đạo quả Sau quá trình nỗ lực tu tập theo đúng lộ trình giới-định-tuệ như vậy, tùy vào năng lực hành giả có thể đạt đến một trong các quả vị giải thoát thuộc Tứ Thánh Quả. Đầu tiên là sơ quả Tu-Đà-Hoàn, hành giả đoạn trừ được ba kiết sử đầu tiên là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ, vị ấy coi như đã nhập vào dòng Thánh, vĩnh viễn không còn tái sinh vào 4 ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula), chỉ còn tái sinh lại vào cõi người, chư thiên tối đa 7 lần trước khi đạt đến Niết-bàn giải thoát. Tiếp theo là nhị quả Tư-Đà-Hàm, hành giả làm yếu ớt thêm hai kiết sử là tham dục và sân hận, khi đó tham dục và sân hận chỉ còn trong các suy nghĩ vi tế chứ không còn biểu hiện ra bên ngoài hành động và lời nói nữa; vị tư-đà-hàm chỉ còn tái sinh trở lại tối đa 1 lần trong cõi người hoặc cõi chư thiên trước khi đạt đến Niết-bàn giải thoát. Kế đến là tam quả A-Na-Hàm, hành giả đoạn trừ thêm hai kiết sử là tham dục và sân hận, sau khi hết tuổi thọ ở cõi người, hành giả hóa sinh lên cõi trời Ngũ Tịnh Cư Thiên rồi tu tập chứng quả A-la-hán và nhập Niết-bàn ở đó. Cuối cùng là tứ quả A-La-Hán, ngoài 5 kiết sử trên, hành giả đoạn trừ thêm 5 kiết sử nữa là sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử vi tế và si mê; sau khi hết tuổi thọ, vị a-la-hán nhập Vô dư Niết bàn, vĩnh viễn không còn tái sinh trở lại trong bất kỳ cảnh giới nào. Cũng nói thêm ở đây, sự chứng quả của các vị hành giả có sự nhanh chậm khác nhau tùy vào phước báu, năng lực, trí tuệ, sự tu tập, phiền não ít hay nhiều của bản thân vị ấy chứ không phải ai chứng quả cũng giống nhau. Ví dụ có vị thì tu tập, chứng đắc dần dần từ sơ quả đến nhị quả, rồi lên tam quả, đến tứ quả. Có vị khác thì đầu tiên chứng đắc tam quả rồi tu tập tiếp và chứng đắc tứ quả. Có vị thì tu tập, giác ngộ và chứng luôn quả A-La-Hán mà không đi qua các giai đoạn sơ quả, nhị quả, tam quả. Phân loại A-La-Hán Về căn bản, tất cả chư vị A-La-Hán đều là bậc Lậu Tận. Tức là các Ngài đã đoạn trừ hoàn toàn 10 kiết sử, không còn dư phiền não ở trong tâm. Vô minh và tham ái vốn là nhân tố căn bản đưa đến luân hồi tái sinh đã bị cắt đứt sạch. Tuy nhiên, do một số khác biệt về trình độ, sở học, thiên hướng, sở đắc... nên khi đạt được đạo quả các ngài sẽ có những năng lực đặc biệt khác nhau. Ở đây chia ra 5 hạng A-La Hán:
Source: https://www.wikiwand.com/vi/A-la-hán | |
|