Ngộ Huỳnh Trung Chánh
*** Sư pháp danh Mật Hiệp, hiệu Trí Hải, tự Hưng Việt, đệ tử của thiền sư Quang Huệ, chùa Kim Chương, trấn Đông Phố, Gia Định thành. Ngày còn là một sa di, sư đã chứng kiến buổi lễ trang nghiêm, cảm động để suy tôn đông cung Nguyễn Phúc Dương lên kế nghiệp Chúa hầu gầy dựng lại cơ đồ nhà Nguyễn. Buổi lễ do Hoà Nghĩa Đạo Lý tướng quân và bổn sư Quang Huệ chủ xướng ngay trong khuôn viên chùa. Hình ảnh đó khắc ghi sâu đậm vào tâm cang sư, ảnh hưởng trọn vẹn sự nghiệp tu hành của sư. Sư chọn nếp sống dấn thân phục vụ đạo pháp và dân tộc. Mà dân tộc, với sư, đồng hoá với cơ nghiệp của giòng họ Nguyễn. Sư nối gót sư phụ, kiên trì, tận tụy, trung thành với chúa Nguyễn. Chúa gặp bao nhiêu nỗi nguy nan, cơ đồ bị tan hoang mấy lượt tưởng không bao giờ cứu vãn được, mà lòng sắc son, trung quân ái quốc của sư vẫn không hề suy giảm. Chúa Nguyễn Ánh trôi giạt đến chốn nào, sư cũng tìm cách để yểm trợ. Nhờ lớp áo tu hành, sư đi lại dễ dàng, quan sát được binh tình Tây Sơn, rồi báo cáo cho Chúa. Sư cũng phụ trách vận chuyển quân lương khi cần thiết. Ngoài ra, nhân việc du phương hoằng hóa, sư để sưu tầm những bậc tài trí thuyết phục họ về với Nguyễn Vương. Các vị tướng Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh, Nguyễn Văn Nghĩa…, đã được sư móc nối để về với nhà Nguyễn. Đầu Xuân Đinh Tị, sư đã vất vả lặn lội đến Vạn Tượng, nước Xiêm La hầu gặp Chúa Nguyễn Ánh báo cáo về tình trạng suy yếu của Tây Sơn tại Gia Định. Nhờ đó, Chúa quyết định đem quân về nước. Thủy quân Chúa về đóng tại Ba Hòn, Hà Tiên, lập căn cứ tạm để liên lạc với các thuộc hạ vẫn còn nằm vùng tại miền Nam, để chuẩn bị phản công. Đoạn, Chúa cho thủy quân đưa gia quyến ra Phú Quốc tạm lánh, rồi đem quân về Long Xuyên, công khai tấn công bính lính Tây Sơn. Lúc đó, thực lực của Chúa Nguyễn rất yếu ớt. Sư phải ra sức khuyến dụ người đệ tử tên Nguyễn Văn Trương, một viên tướng Tây Sơn, mang 300 lính và 15 chiến thuyền về với Nguyễn Vương. Từ đó, lực lượng phục quốc lớn mạnh nhanh chóng. Chúa tấn chiếm Gia Định, rồi lần lần, đánh phá các tỉnh miền Trung. Chỉ trong vòng 5 năm, tức năm Nhâm Tuất, Chúa Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, tự xưng là Vua, lấy niên hiệu là Gia Long.
Tưởng nhớ lòng trung quân ái quốc của sư, vua triệu ra
Phú Xuân. Trước mặt triều thần văn võ, Vua nhiệt liệt
nhắc nhở thành tích của sư, rồi long trọng tấn phong người
đạo hiệu Hưng Việt Quốc Sư, để đảm nhận trách vụ lãnh
đạo tinh thần cho cả nước. Vinh dự đó khiến sư vừa hân
hoan vừa cảm động, nguyện tận trung báo đáp hồng ân của
hoàng thượng. Sau đó, Vua đã thảo luận tương đắc với sư
về những vấn đề trọng đại liên quan đến sự thịnh trị
của đất nước. Sư trình bày với hoàng thượng về viễn
ảnh một tổ chức Phật giáo lớn mạnh, để phục vụ cho dân
tộc và đạo pháp. Vua nhiệt liệt tán dương dự án của sư,
rồi tự nguyện đề xướng chương trình xây cất một ngôi
Quốc tự nguy nga tại Phú Xuân, sao cho xứng đáng với danh vị
Quốc sư cao tột. Đoạn vua thân mật ủy thác Quốc sư một công
tác bí mật và tối quan trọng tại miền "Ở trong chăn mới biết chăn có rận", sư hiểu rất rõ tâm lý tu sĩ và tình hình Phật giáo đồ, nên đã tiến hành công tác bí mật dựa trên một phương pháp hoàn bị. Với thiểu số đạo đức cao tăng, sư dùng lễ kính thân cận tạo cơ hội đầu tư xa xôi. Đối với kẻ tham lam, thì sư công khai quăng tiền ra mua chuộc biến thành thứ tay sai đắc lực. Còn đối với những vị tu hành, tuy không đến nỗi tham tiền lộ liễu, nhưng lại ưa danh vị trong đạo, thì sư mang bằng sắc, chức tăng cang, hòa thượng nhử mồi. Chiêu thức thâm độc này khiến cho nhiều vị tu hành thoát tục, bỗng lục đục tranh nhau chạy tục tằn thô lỗ. Dĩ nhiên là món mồi danh lợi đã được sư khéo léo che đậy dưới chánh nghĩa "tứ ân", nên giới tu hành đến với Quốc sư vì danh lợi, cũng có thể tự dối lòng là dấn thân cho lý tưởng Phật đà. Khi hành hương tại Chùa Thập Tháp Di Đà, phủ Qui Ninh, Bình Định, Quốc sư tình cờ khám phá được những hành vi nhũng lạm của viên tri phủ sở tại. Quốc sư vội phúc bẩm về triều, và viên tham quan liền bị thải hồi để điều tra. Sau đó, chuyến hành hương trầm lặng của sư bỗng huyên náo và khởi sắc theo một chiều hướng mới. Giới quan lại, thoáng nghe hung tin của viên tri phủ Qui Ninh đã run sợ rỉ tai nhau cẩn mật đề phòng. Họ theo dõi sư từng bước để nghiên cứu tỉ mỉ một kế hoạch đón tiếp sư, sao cho sư ngỡ là đã tai nghe mắt thấy sự thực và chỉ toàn là sự thực. Tất cả những địa điểm sư đến đều được chuẩn bị dàn cảnh, những nhân vật sư tiếp xúc phải được "đả thông" trước. Thế là, từ độ ấy, đến địa phương nào, sư chỉ được nghe dân chúng thi đua nhau ca tụng đức độ thanh liêm vì dân vì nước của giới quan lại sở tại. Quốc sư lại vui mừng khám phá thêm là giới quan lại chính là giới Phật tử thuần thành bậc nhứt. Họ tranh nhau thỉnh cầu sư dạy đạo, rồi cả nhà xin được quy y với sư. Viên tri phủ Đông Phố lại tung "khổ nhục kế" thần sầu. Sau khi nghe thời pháp, viên quan ràn rụa nước mắt mừng rỡ được nghe chân lý tối thượng, đoạn quỳ lạy Quốc sư, xin từ quan để theo Quốc sư xuất gia đầu Phật. Lối trình diễn xuất thần đó khiến Quốc sư xúc động vô cùng. Sự thương yêu giảng dạy người đệ tử mới, là tu hành thì không nhất thiết phải xuất gia. Làm quan mà thương yêu chăm sóc dân là đã thực hành Phật đạo rồi. Không dám trái ý Quốc sư, tri phủ Đông Phố bắt buộc phải hi sinh tiếp tục làm quan tham ô như cũ. Quốc sư lại ghé ngôi tổ đình, mang về bằng sắc "Sắc tứ Kim Chương tự". Gặp lại huynh đệ, tuy tình cảm đậm đà thắm thiết, nhưng sư chỉ lưu lại hai ngày rồi ra đi. Có thể, vì sư thấy thiếu vắng những lời ca tụng xuất phát từ "đáy lòng thành thật" của nhóm đệ tử mới, và phần khác, vì sư cảm giác dường như chư huynh đệ tư tưởng xưa quá rồi, không theo kịp những tiến bộ vượt bực của sư như đám đệ tử mới trung thành. *** Trấn Hà Tiên là địa điểm cuối cùng và quan trọng nhất của chuyến hành hương. Theo đúng chương trình vạch sẵn, Quốc sư được quan Chưởng vệ thống lĩnh 5 vệ thủy quân miền duyên hải phương Nam hiệp cùng quan Trấn Thủ Hà Tiên long trọng đón tiếp từ ranh giới huyện Kiên Giang, để dùng ghe hầu xuôi theo kinh đao về Ba Hòn, một vùng tập trung đa số núi đá vôi của Hà Tiên. Đá vôi có tính chất là dễ bị soi mòn bởi nước mưa, do đo, qua năm tháng, những núi đá vôi thường bị xẻ đụt để biến thành những hình thù kỳ dị hoặc cấu tạo nên những hang động thần bí, với vô số thạch nhũ dị dạng. Những hang động rộng rãi, xinh đẹp, nổi tiếng như Thạch Động ở thị trấn Hà Tiên, chùa Hang ở Bình Trị… đều được kiến lập thành chốn tu hành dập dìu khách hành hương lễ bái. Số lớn còn lại như núi Đá Dựng và nhóm núi vùng Ba Hòn, hang ngách ngang dọc chằn chịt, vắng người lui tới, là chốn ẩn thân lý tưởng của những phần tử trốn tránh ngoài vòng pháp luật. Thấu hiểu mối lo âu của nhà Vua, Quốc sư dừng lại Ba Hòn khá lâu để tìm hiểu dân tình. Nhận thấy núi đá vôi cằn cỗi khó tự túc nếu thiếu nguồn tiếp tế lương thực của dân xóm chài, nên Quốc sư kết nạp người trong giới cư sĩ. Ngoài ra, hai vị tu sĩ ngụ tại Chùa Hang và Chùa Khóm Tre đều là những vị đầy nhiệt tình đạo pháp, đã được sư nhận làm pháp đệ, nên chắc chắn sẽ phục vụ quân vương đắc lực. Nhân dịp này, Quốc sư cũng được viên Chưởng vệ đưa đi viếng hang Tiền, căn cứ bí mật của Vua trong thời gian chuẩn bị tổng phản công để chiếm Gia Định thành năm Đinh Tị. Núi Long An là ngọn núi đá vôi khá lớn toạ lạc cách Ba Hòn chừng 2 dặm về hướng Bắc. Hai phần của núi còn tựa vào đất liền, phần ba còn lại chồm xa ra ngoài biển. Núi cũng có những khóm cây thưa thớt mọc cằn cổi trên vài cụm đất nhỏ, phần còn lại bao phủ bởi loại đá răng cưa tua tủa nhọn hoắc, không lối leo trèo. Con đường lên núi lại là con đường biển. Nước biển sâu, thuyền có thể vào sát chân hòn. Neo thuyền bên bến đá xâm xấp nước, khách liền thấy lẫn khuất sau vồ đá nhô ra, một hang sâu thăm thẳm. Mò mẫm bước vào hang, mắt vừa quen với bóng tối, khách bỗng khám phá trong ánh sáng mờ ảo, một thế giới thạch nhũ cả ngàn loại sai biệt về hình dáng lẫn màu sắc, nhưng đều mang tính chất diễm ảo thần tiên. Hang nở rộng dần thành động. Động hình nó. Từ trên chóp đỉnh cao ngất, ánh sáng dìu dịu tỏa nhẹ, làm phong cảnh thiên nhiên thêm huyền bí. Mọi cảnh vật: Vách đá vằn vện lồi lõm, hồ nước con con, thạch nhũ, viên sỏi láng bóng, một đám rong rêu, tất cả đều phô bày nét đẹp đặc thù. Ngay như giọt nước thoát từ trái thạch nhủ no tròn, bỗng mường tượng như một viên kim cương long lanh màu sắc. Trung tâm động rộng rãi đủ cho bầy tôi Vua Gia Long quay quần họp mặt. Cạnh đó, một lò đúc đã từng được thiết lập để đúc tiền kẻm, dùng cho chi phí quân lương. Đó cũng là lý do, mà hang Long An cũng được gọi là hang Tiền. Thạch động còn có đường hang lên dần tới đỉnh, nhờ vậy, hang động nói chung, có sức chứa cả ngàn người, với ưu điểm là chòi canh trên đỉnh cao, có thể quan sát rộng rãi bốn phương trời.
Quốc sư được quan Chưởng Vệ hướng dẫn sang một ngách
nhỏ, đi len lỏi đến một động hẹp hình chữ nhật, như
một gian phòng thiên nhiên. Phòng trống trải được hoá công
thiết trí sẵn một chiếc giường đơn bằng đá nhẳn thín.
Giai đoạn này Quốc sư đã nghe nhắc nhở mãi, nên không
mấy ngạc nhiên. Sấm ký nham cũng không có gì đặc biệt, đó
chỉ là một tảng đá rằn ri hổn tạp, lồi lõm, nhiều vết
nứt rạn, rong rêu, mốc meo, trong ánh sáng lờ mờ có thể
biến thành hình ảnh sống động bởi người giàu óc tưởng tượng.
Nhìn vách đá cũng giống như nhìn đám mây bồng bềnh, để
suy tưởng thành hình người hình thú. Quốc sư không tin
thuyết huyền bí mầu nhiệm, tuy nhiên, Quốc sư lại kích thích
bởi ý định nằm nghỉ ngay tại địa điểm xưa Vua nằm, nên
tỏ ý mệt mỏi cần phải nghỉ ngơi. Còn lại một mình, sư
thoải mái nằm xuống. Cảm giác mát lạnh của giừơng đá
truyền vào người sư, khiến sư khoan khoái và tươi tỉnh. Tình
cờ sư hướng về sấm ký nham, rồi bỗng nhiên mắt sư như
bị một hấp lực vô hình dán chặt vào đó. Những đường nét
tạp nhạp bất động bỗng trỗi dạy nhảy múa, để kết
hợp lẫn nhau thành những hình ảnh chập chờn. Rồi sư bỗng
thấy hình ảnh sư, với đầy đủ đường nét rõ rệt, đang
lom khom dưới cội cây trôm. Sư mừng rú lên chờ đợi ngôi
Quốc tự nguy nga sắp hiện ra, thì tên lính hầu cận của viên
Chưởng Vệ bước vào phá rối: ***
Phái đoàn trở về thuyền để lên đường đi Phú
Quốc. Phú Quốc là một hải đảo có diện tích rộng lớn,
hội đủ điều kiện cho một lực lượng nổi dậy đồn trú
lâu dài. Đất đai Phú Quốc phì nhiêu có thể trồng đủ
loại ngũ cốc, nước ngọt khắp nơi, thú rừng thật nhiều,
rừng cây danh mộc to lớn có thể dùng để đóng chiến
thuyền rất thừa thải. Dãy núi Cẩu Sừng tức Cửu cửu Sơn,
gồm 99 đỉnh cao sâu hiểm trở, một người lẫn trốn thì không
quân đội nào truy tầm được. Trong những vùng có dân cư
ngụ: Dương Đông, Cửa Cạn, Hàm Ninh, An Thới, chỉ riêng Dương
Đông mới hình thành được chính quyền xã như vậy, chỉ
mới kiểm soát được một phần vạn diện tích toàn đảo.
Chuyến đi hành hương Phú Quốc, vì vậy, có một tầm quan
trọng đặc biệt.
Tên lính già chỉ hòn đảo xa tít mù khơi, hòn đảo có
dáng dấp như một nắp vung đầy đặn, với cái núm ở trên.
Dù đã ở trong tầm mắt, thuyền xuôi gió phóng nhanh, nhưng cũng
phải mất hai ngày mới đến nơi. Nhìn diện tích hòn đảo khá
rộng, phần
Bãi cát cạn nên chiếc thuyền phải neo ở ngoài xa.
Chiếc xuồng thúng tre nhẹ hửng được thả xuống để đưa
Quốc sư và phái đoàn tháp tùng vào bãi. Trên thúng Quốc sư
đã thấy căn nhà cỏ nhỏ bé lụp xụp núp sau hàng dừa đơm
trái. Một lão già mặt mũi nhăn nheo, tóc râu bạc trắng, vận
bộ quần áo nâu củ mèm, rách nát, đang xăm xoi đám bắp lơ
thơ. Lão già lù khù thoáng giựt mình, ngây ngô ngó sửng khách
phương xa đột ngột xuất hiện. Người lính già phóng nhanh đến
bên lão, kính cẩn chào thật sâu và Ông lão cũng đáp lễ long
trọng không kém.
Ì ạch leo trở lên thuyền, Quốc sư đâm ra bực bội tên
lính già nhiều chuyện làm sư phí phạm thời giờ vô ích. Viên
Chưởng Vệ có vẻ cũng kém vui, nhưng chưa dám để lộ ra ngoài,
chỉ dò dẫm:
Người miền
Quốc sư quì xuống, hướng về Hòn Nghệ cung kính lễ 3
lạy. Khi Quốc sư đứng dậy, thì thấy viên Chưởng Vệ đứng
bên cạnh, trố mắt ngạc nhiên, thưa hỏi: |