LUÂN
HỒI
Thích
Tâm Thiện
Dẫn nhập
Luân hồi là một thể tài
rất sinh động và rất quan tâm đối với
con người. Chết rồi sẽ đi đâu về
đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cõi âm hay không?
v.v... Ðó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm
của phần lớn nhân loại. Các nền tín ngưỡng
và tôn giáo trên thế giới đều có những
quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với
Phật giáo, luân hồi không phải là một giáo lý
đặc thù, cũng không phải là một vấn
đề triết học cơ bản, nhưng nó là một
sự thật hiển nhiên đối với những
con người còn bị trầm luân trong sanh tử khổ
đau. Do đó, trong các kinh điển của cả
Nam tạng và Bắc tạng đề thảng hoặc
đề cập đến các vấn đề luân hồi,
như là một hiện tượng trôi chảy của
những đời sống nối tiếp nhau. Ðặc
biệt là trong Bổn Sinh (Tiểu Bộ kinh) đã ghi
lại các mẩu chuyện tiền thân của Ðức
Phật, như là một xác chứng hùng hồn về
cuộc sống luân hồi của vị đại Bồ
tát.
Nội dung
I.Ðịnh nghĩa:
Luân hồi, tiếng Phạn là samsàra, có nghĩa là sự
chuyển sinh, sự chuyển tiếp, sự diễn tiến
liên tục của những kiếp sống; và sự
chuyển sinh liên tục đó, thường được
biểu thị bằng bánh xe (cakka) và được gọi
là bánh xe luân hồi (samsaracakka): Chúng ta có thể hình
dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh
sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn
loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi
đầu cũng không có điểm kết thúc, và bánh
xe ấy cứ quay mãi trong vòng trầm luân của sanh tử
khổ đau cho đến khi nào con người tu tập
và đạt đến sự giải thoát tối thượng.
Ðức Phật dạy:
"Ðêm dài đối với kẻ
thức
Ðường dài đối với kẻ mệt
Luân hồi dài đối với kẻ ngu
Không biết rõ chân diệu pháp"
II. Nội dung luân hồi:
Sau khi thành thạo đạo cội bồ đề, một
trong những tuyên ngôn (khải hoàn ca) đầu tiên của
Ðức Phật đã được cất lên giữa
dòng đời với nội dung giải thoát vòng luân
hồi - trầm luân, đã được ghi lại
trong kinh tạng như sau:
Trong lòng sống chết vô tận
Ta đi mãi không dừng
Từ bào thai này sang bào thai khác
Ðuổi theo người chủ ngôi nhà
(trong vòng luân hồi)
Chủ nhà ! Ta đã nắm được ngươi
rồi
Ngươi không cất nhà lại được
Cột kèo đã gãy hết
Mái, rường đã sụp đổ
Tâm lìa hết tạo tác
Tất cả đã diệt trừ xong
(giải thoát khỏi vòng luân hồi). (Pháp cú - 153-154)
Luân hồi - tái sinh:
Qua bài kinh trên, chúng ta thấy rõ Ðức Phật đã
xác định sự thật về luân hồi một
cách cụ thể qua hình ảnh tái sinh (từ bào thai
này sang bào thai khác). Tái sinh (reincarnation) là sự trở
lại một đời sống mới hoặc cao
hơn, hoặc thấp hơn hoặc như cũ trong lục
đạo (trời, người, a tu la, địa ngục,
ngạ quỷ, súc sinh) sau khi đã kết thúc một chu kỳ
sống (life cycles), hay còn gọi là thọ mạng đã
hết - chết. Thông thường, khi nói đến luân
hồi - tái sinh, trong phật giáo thường đề
cập đến hai khái niệm cơ bản về sự
sinh tử, đó là:
a. Chu kỳ sinh tử của từng sát na
b. Chu kỳ sinh tử của một đời sống
- Về chu kỳ sinh tử của từng sát na, vì nó
diễn ra quá nhanh chóng như sự sinh ra rồi mất
đi của một làn chớp (điện chớp) mà
thuật ngữ Phật học gọi là "niệm niệm
- sinh diệt" (sự sinh tử diễn ra trong từng
ý niệm), do đó vấn đề chỉ được
bàn đến trên một bình diện cao hơn, như
trong thiền định, hoặc các cảnh giới của
tâm thức v.v... - Về chu kỳ sinh tử của một
đời sống, do tính cách giới hạn của một
chu kỳ sống, nghĩa là có thể ghi nhận qua bốn
giai đoạn: sanh, lão, bệnh, tử và / hoặc sinh
thành (sinh), tồn tại (trụ), biến chuyển (dị)
và hoại diệt (diệt) của một chúng sinh, nên
chu kỳ này trở thành chủ đề trung tâm khi
nghiên cứu về luân hồi-tái sinh. Theo quan điểm
của Phật giáo, tất cả muôn loài chúng sinh phải
chịu sự chi phối của định luật vô
thường. Ðối với con người, vô thường
chính là sự biểu hiện của sinh, lão, bệnh,
tử của mỗi kiếp sống, và cứ mỗi
kiếp sống như thế đều được
giới hạn bởi hai đầu sinh và tử. Tuy nhiên,
sinh và tử chỉ là sự bắt đầu và hoàn
tất của một chu kỳ. Như thế, khi thân
xác này hủy hoại, cái gì sẽ tiếp tục tái
sinh - mở đầu một kiếp sống mới? Ðây
là then chốt để tìm hiểu về luân hồi.
Kinh trung bộ (Majjhima Nikaya - 135), Ðức Phật dạy
rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp,
là kẻ thừa tự nghiệp, là quyến thuộc của
nghiệp; nghiệp là thai tạng mà từ đó con người
được sinh ra". Từ lời dạy trên,
chúng ta thấy rằng nghiệp (karma) luôn luôn có mặt
cùng với sự có mặt của con người. Và
khi chết, thì thân thể vật lý này tan hoại, còn
nghiệp vẫn còn tiếp tục trôi lăn theo dòng
trầm luân của nó (hoặc thiện nghiệp, hoặc
ác nghiệp). Nhưng nghiệp không phải là linh hồn
bất tử để nối kết các kiếp sống,
vì bản thân nó là vô ngã. Tuy nhiên, chính nghiệp là cơ
sở, là điểm trung tâm, để qua đó, vòng
luân hồi xoay chuyển. Vậy, nghiệp là gì? Nghiệp
là hành động có tác ý, hay hành động
được phát sinh từ tâm; và thông qua hành động
của thân, miệng và ý mà nghiệp được hình
thành. Nói đến nghiệp là nói đến thiện
ác trong tương quan nhân quả; và trong mối
tương quan đó, động cơ chính để
kiến tạo nghiệp là tham , sân, si (ác nghiệp) và
ngược lại là không tham, không sân, không si (thiện
nghiệp). Từ đây, chúng ta thấy rõ rằng,
chính tâm lý của mình là cơ sở để tạo
nên nghiệp của mỗi người. Con người
là kẻ quyết định cái nghiệp của mình -
cái định nghiệp do mình tạo tác. Và cũng chính
con người là kẻ duy nhất có thể giải
thoát mọi nghiệp lực của mình, đi ra khỏi
vòng luân hồi tái sinh.
Nghiệp và tái sinh:
Trong đạo Phật, nghiệp được trình
bày gồm nhiều loại, nhưng nghiệp cơ bản
là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Về
mặt tính chất, nghiệp được phân thành bốn
loại như sau:
Cực trọng nghiệp (weighty
karma): nghiệp loại nặng
như giết cha mẹ, giết người v.v...
Tập quán nghiệp (habitual
karma): nghiệp do thói quen
hình thành.
Tích lũy nghiệp (strored up
karma): nghiệp do tích tụ
từ cuộc sống thường ngày.
Cận tử nghiệp (death-proximate
karma): nghiệp lúc sắp
chết.
Như đã trình bày, trong suốt vòng luân lưu của
sinh tử, tử sinh, từ đời sống này sang
đời sống khác, nghiệp bao giờ cũng
đóng vai trò trung tâm của sự luân chuyển. Tuy
nhiên, trong lĩnh vực tái sinh (reincarnation), thì cận
tử nghiệp là điều kiện quan trọng nhất
ảnh hưởng trực tiếp đến sự tái
sinh. Cận tử nghiệp, trên một góc độ nào
đó, có thể nói là hệ quả được cô
kết trong suốt đời sống của một kiếp
người; đồng thời, nó cũng là dòng nghiệp
thức mạnh nhất, thuc đẩy thần thức
của con người trước, trong hoặc sau khi
chết tìm kiếm một sự tái sinh. Thông thường
khi sinh tiền, con người làm lành hay làm ác, các
hành động (của thân, miệng ý) đó đều
được lưu trữ vào trong Tàng thức (Alaya)
như những hạt giống được gieo vào và
nằm im trong lòng đất, cho đến khi sắp
chết hoặc chết, thân thể và các quan năng không
còn hoạt động, lúc bấy giờ chỉ có
tâm thức hoạt động. tuy nhiên, tâm thức
lúc đó không phải là tâm thức ở trạng
thái định tĩnh, tự chủ, linh hoạt v.v..,
mà trái lại nó rơi vào trạng thái bất tỉnh,
hôn mê, hoảng hốt, phách lạc hồn xiêu ...Và
ngay lúc bấy giờ, mọi tạo tác của con người,
hoặc thiện hoặc ác (còn gọi là thiện nghiệp
hoặc ác nghiệp), từ trong quá khứ (khi còn sống)
sẽ tạo thành dòng nghiệp thức gồm những
ý lực cực mạnh để thôi thúc thần thức
của con người đi tìm cảnh giới tái
sinh. Cần lưu ý rằng, các tập quán, thói quen,
nhất là sự luyến ái, chấp thủ khi còn sống
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cận
tử nghiệp. Do đó, nếu sống an lạc thì
cũng chết an lạc. Sống còn khổ đau vì
tham, sân, si thì đương nhięn chết cũng khổ
đau như thế. Vì sống và chết chỉ xuất
hiện trên một tiến trình, như thức và ngủ.
Vì vậy, để có sự giải thoát, ngay tại
đây và bây giờ, cần phải luôn luôn hướng
tâm đến với sự xả ly thanh tịnh, xoá bỏ
mọi sự tham ưa và bám víu. Thánh nhân có dạy rằng:
"Thế gian như một con thuyền, hãy đi trên
nó chứ đừng mang vác...". Từ một vài
chi tiết trên, chúng ta thấy rằng sự sống
và sự chết của con người có được
an lạc hay không là tùy thuộc vào dòng tâm thức của
mỗi cá thể. Sau khi thọ mạng đã hết -
chết, thì thân xác sẽ tan hoại, nhưng dòng nghiệp
thức (thần thức) sẽ tiếp tục đi vào
các đời sống mới trong sáu cõi: trời, người,
a tu la , địa ngục, ngạ quỷ vŕ súc sanh,
tùy theo nghiệp lực thiện hay bất thiện.
Nghiệp thức - sinh và tái
sinh: Theo kinh Trung Bộ
(tập I), sự xuất hiện của con người
bao giờ cũng hội đủ 3 điều kiện:
a. Cha mẹ có giao hợp
b. Người mẹ có thể thụ thai
c. Phải có mặt nghiệp thức. Nếu không có mặt
nghiệp thức thì thai nhi không thể sống. Về
nghiệp thức (karmic consciousness), còn được gọi
là hương ấm, hay là Kiết sinh thức
(Gandhabha). Khi điều kiện hội đủ và do
nghiệp chiêu cảm mà kiết sinh thức đi vào
thai mẹ, lúc bấy giờ Kiết sinh thức cảm thấy
như là ý niệm tối sơ của một đời
sống mới. Cho đến khi chết, cũng dòng
nghiệp thức ấy thúc đẩy tìm kiếm tái
sinh, nên được gọi là "nghiệp dẫn
tái sinh". Thực ra, cả sự sinh và tái sinh đều
được căn cứ trên dòng vận hành của
nghiệp thức. Và từ sinh cho đến tái sinh
(sau khi chết), trong suốt quá trình đó, đời
sống của một sinh thể được hình
thành qua cơ cấu của 12 Nhân duyên: vô minh - duyên
hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc
duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên
thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu,
hữu duyên sinh, sinh duyên lão, tử, sầu, bi, khổ,
ưu não... Như vậy, 12 nhân duyên chính là sự
hiện hữu của con người. Và trong 12 Nhân duyên,
các chi phần vô minh, hành, thức và danh (sắc) là các
yếu tố của nghiệp dẫn tái sinh.
Các quan niệm về chết
và thân trung ấm: Trong
Nikàya đề cập đến sự chết cụ
thể như sau: thứ nhất là chết vì sắc
thân đoạn diệt, hai là chết do thọ mạng
đã hết, và do nghiệp ở đời đã hết.
Bên cạnh đó, còn có trường hợp chết
đột ngột (bất đắc kỳ tử,
chưa đến lúc mà chết). Nhìn chung, sự chết
được xem như là sắc thân (cơ thể)
đã đoạn diệt. Một vấn đề khác
nữa là trung ấm. Theo một số chủ thuyết
của Ðông sơn bộ, Chính lượng bộ thuộc
Hữu bộ cho rằng, sau khi chết và trước
khi tái sinh, ở giữa đó là thân trung ấm (trung
gian). Thời gian của thân này là thời gia chuẩn
bị tái sinh, nó kéo dài không quá 49 ngày. Có thể do
ảnh hưởng của không quá niệm này mà có tục
lệ cúng thất - thất trai tuần (7 x 7 = 49 ngày).
Tuy nhiên, theo Nikàya và A Hàm thì từ "tử tâm"
cho đến "kiết sinh tâm" chỉ diễn ra
trong vòng một đến hai sát na (tích tắc), do
đó không cần có thân trung ấm (trung hữu). Thật
ra, theo người viết nhận định, thân
trung ấm cũng là một thân vi tế (tịnh sắc
thân), một cảnh giới trong hằng hà sa thế
giới; và đương nhiên nó cũng vô thường,
biến dị, cũng luân hồi sinh diệt. Vì thế,
không có gì mâu thuẫn giữa "tử tâm" và
"kiết sinh tâm" trong Nikàya với quan điểm
có hay không có quan điểm sắc thân trung ấm. Vì
lẽ, thời gian 49 ngày cho một thân - thức
đương nhiên không có gì vô lý khi tại trần
gian có những đời sống dài nhất chỉ một
vài ngày, như loài muỗi mòng v.v...
Ðể có một sự
chết trong thanh bình - an lạc:
Ðây là vấn đề trọng yếu của con
người, Như đã đề cập, sống và
chết cũng như thức và ngủ, vậy thôi.
Chúng ta không nên quan tâm quá đáng về cái chết,
vì ai cũng chết. Nhưng điều đáng quan tâm
hơn là sống và sống như thế nào để
lúc chết được bình an. Vì lẽ đó, đối
với Phật tử cần phải sống giữ tâm
linh trong sạch, đừng làm điều gì gây khổ
đau cho chính mình và cho kẻ khác, nhất là phải
luôn luôn ý thức rằng cuộc đời là vô thường,
"trần gian này là chiếc cầu, hãy đi qua nó
chứ đừng xây nhà trên nó". Cho đến khi
nào tâm được trong sạch, thanh bình, không còn
luyến tiếc, không còn bám víu vào bất cứ
điều gì, dầu gia tài sự nghiệp, dầu vợ
đẹp con ngoan v.v..., thì khi đó sự chết của
bạn như lên thuyền sang sông, giải thoát mọi
khổ đau, chết trong sự bình an phúc lạc. Ðức
Phật dạy:
"Bỏ quá khứ, hiện tại và vị lai
Ðến bên kia cuộc đời
Ý giải thoát tất cả
Chớ vướng bận sinh, già, bệnh, chết"
Kết luận :
Tìm hiểu về luân hồi là để sống
được an nhiên, tự tại. Chúng ta không cố
tìm gặp luân hồi, vì luân hồi đang trôi chảy
ngay trên thân của mỗi con người, như dòng
máu luân lưu. Cái khổ đau nhất của người
đời là tham muốn và nắm giữ các đối
tượng "của tôi" và của "cái tôi
thích, tôi yêu". Bạn có thể tập buông bỏ từ
từ cái tâm lý tham muốn và nắm giữ đó, nhưng
nếu một mai...khi vô thường đến, thần
chết đến hỏi bạn thì bạn hãy ngay lập
tức hướng tâm đến sự từ bỏ tất
cả, sự không tham luyến tất cả, sự thanh
tịnh bình an, sự chánh niệm tỉnh giác vì đó
là điều kiện tối cần thiết cho sự tái
sinh vào một đời sống tốt đẹp
hơn và cao cả hơn. Và để làm được
điều đó ngay bây giờ và ở đây, bạn
hãy thực tập tư duy về vô thường - vô
ngã.
"Ta còn để lại gì không
Kìa non đá lở, nọ sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
Vô minh nẻo trước xa xôi dặm về..."
(Vũ Hoàng Chương)
Source :
www.thuvienhoasen.org
|