ĐẠI THỦ ẤN
(Mahamudra)
Ouang
Tchuk Dorjé
Thích Trí Siêu dịch
CHƯƠNG
II
Thiền Định
Tư thế căn
bản của thân và tâm
Sự tu tập chính yếu bao gồm hai
phần: an trụ tâm hay Thiền Ðịnh (Samatha, Shiné) và quán chiếu thâm sâu
hay Thiền Quán (Vipasyana, Lhagtong).
Trước hết về Thiền Ðịnh, có
nhiều phương thức tu tập để trụ tâm vào một điểm (Samadhi, Ting Dzin). Nếu
biết cách thì những chướng ngại và vọng niệm sẽ không khởi lên nữa, nhờ đó
ta có thể trực nghiệm được giòng tâm thức nguyên thủy [1] và đi sâu vào
Thiền Quán.
Hành giả ban đầu tu tập, ngồi
xếp bằng theo tư thế kiết già (vajra) hoặc bán già để tiết chế những nguồn
nguyên lực [2] đi xuống. Ðể hướng dẫn những luồng nguyên lực thuộc địa đại
chảy vào sạn đạo trung ương [3] thì phải giữ xương sống thẳng như cột trụ.
Ðể đem những luồng nguyên lực thuộc thủy đại trở về sạn đạo trung ương thì
đ?t hai bàn tay phía dưới rún theo ấn Ðại Ðịnh, và thả nhẹ hai vai về phía
sau. Ðể điều khiển luồng thuộc hỏa đại trở về trung ương thì giữ cổ thẳng
và thu cằm vào như lưỡi câu. Ðể hướng dẫn những luồng thuộc phong đại trở
về trung ương thì giữ mắt khép hờ một phần ba, chú vào một điểm dọc theo
sống mũi. Môi và lưỡi để tự nhiên, hoặc nếu được thì để lưỡi đụng ổ gà. Tư
thế trên được gọi là tư thế Vairocana.
Sự định tâm hay an trụ tâm là
một trạng thái an lạc phát khởi nhờ tâm an trụ vào một điểm, sau khi hàng
phục được 5 chướng ngại: tán loạn, hôn trầm, nghi ngờ, mỏi mệt, mờ
ám.
Có nhiều cách tu tập: hoặc trú
tâm vào một vật, một việc hoặc suy tư về giáo lý như Tứ Diệu Ðế, nhưng vẫn
không dính mắc vào "tà niệm". Tà niệm ở đây là những ý nghĩ hoàn toàn
không liên quan gì đến đề mục đang quán chiếu. Không nên lầm nghĩ "vô
niệm" là ngồi trơ không nghĩ gì hết, vô niệm có nghĩa là vô tà
niệm.
Theo giáo lý Mật tông (Tantra),
tâm và những luồng nguyên lực liên quan rất mật thiết. Nếu những luồng
nguyên lực (prana, lung) trôi chảy đúng đường thì tâm sẽ vắng lặng; nhưng
nếu chúng chảy sai trệch thì vọng tưởng, vọng niệm khởi lên loạn xạ. Những
luồng này trôi chảy trong các ống dẫn lực hay kinh lực (nadi, tsa); trong
số đó có ba đường chính là đường kinh giữa (sạn đạo trung ương), một ở bên
phải và một ở bên trái, cả ba chạy song song phía trước đường xương
sống.
Thông thường, những luồng
nguyên lực chỉ di chuyển trong hai đường kinh phải và trái, do đó làm khơi
dậy vọng niệm, ảo tưởng. Một khi những luồng nguyên lực được điều khiển và
hướng dẫn trở về sạn đạo trung ương thì mọi vọng niệm tự dứt. Ngồi trong
tư thế Vairocana không ngoài thực hiện mục đích trên.
Có nhiều cách phân loại sắp xếp
các luồng nguyên lực. Theo sáu phép Du Già của Naropa [4] thì có năm luồng
nguyên lực: 1) luồng đi xuống, nhằm tống khứ ra ngoài những uế trược qua
hai đường đại tiểu tiện; 2) luồng đi lên, điều khiển sự hấp thụ thức ăn,
sự rung động của cổ họng và giọng nói; 3) luồng tiếp giữ sức sống (sinh
lực); 4) luồng điều hòa sự tiêu hóa; 5) luồng chạy khắp châu thân, tàng ẩn
trong mọi động tác.
Có một cách phân loại khác được
sắp xếp theo địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại và không
đại.
Trong tập sách này, cả hai cách
phân loại được phối hợp để chỉ dạy về tư thế Vairocana và điều khiển những
luồng nguyên lực.
Sau khi an trụ ở tư thế này,
tâm bớt dính mắc vào giòng tư tưởng vọng niệm, dần dần trạng thái vô khái
niệm sẽ ảnh hiện. Ðể tránh sự căng thẳng hay vận công quá mức, trước hết
hãy thở ra vài hơi mạnh rồi sau đó chỉ cần hít thở nhẹ nhàng tự
nhiên.
Khi thở ra hãy quán tưởng như
đang tống khứ tất cả phiền não và hắc nghiệp ra ngoài. Sau đó, tập hít thở
trong chánh niệm, và khi tâm trở lại vắng lặng thì không cần chú tâm theo
dõi hơi thở nữa.
Quán niệm hay nhớ lại sơ về các
pháp dự bị tu tập, sau đó cắt đứt tất cả ý niệm, không nghĩ gì về quá khứ,
tương lai, không bám víu hoặc xua đuổi, chỉ để tâm trong trạng thái trôi
chảy tự nhiên, bây giờ và ở đây.
Trên đây là điểm thứ nhất:
những tư thế căn bản của thân và tâm, nền tảng quan trọng của Thiền Ðịnh,
hành giả cần phải tinh tấn thực tập.
Chú thích:
[] Danh từ thông dụng gọi là
bổn tánh.
[2] Courants d’énergie: còn gọi là khí
lực.
[3] Canal central d’énergie: kinh lực trung
ương.
[4] Six Yogas de Naropa
Ðịnh tâm trên một hình
sắc
Nếu không thể đem tâm trở về
trạng thái tự nhiên và an trú trong đó thì phải nương vào một vật bên
ngoài để chú tâm như một khúc gỗ, hòn sỏi, tượng Phật, ngọn lửa, v.v...
những vật nào tự cảm thấy thích hợp. Không cần suy nghĩ về màu sắc hay
hình dáng của vật đó, chỉ cần chú ý giữ tâm an trú vào vật trước mặt,
không quá căng thẳng hay thả lỏng. Chặt đứt tất cả tư tưởng ngoại
biệt.
Nếu tâm quá căng thẳng sẽ cảm
thấy lo âu và tức tối; nếu thả lỏng thì lại bị hôn trầm và mờ ám. Ðiều tâm
cũng giống như lên giây đàn, không căng mà cũng không lỏng thì đàn mới
kêu.
Cách thức chú tâm trên một hình
sắc cũng tương tợ như việc quan sát một hòn sỏi nằm dưới đáy ly nước đục.
Hòn sỏi sẽ hiện rõ ràng sau khi tất cả bùn nhơ lắng xuống đáy. Cũng vậy,
khi những ý nghĩ không còn khởi lên khuấy động, ta sẽ nhìn thấy rõ đối
tượng hình sắc. Hãy tập nhìn hình sắc như một đứa trẻ nhỏ, không bình luận
hay suy nghĩ [1].
Nếu chú tâm mà không khởi ý
nghĩ hay khái niệm thì tốt. Nhưng nếu chúng khởi lên, chỉ cần nhận biết và
không theo, vì chúng tự khởi tự diệt.
Khi một ý niệm khởi lên, nếu
không sáng suốt nhận biết thì nó sẽ móc nối làm khởi lên muôn vàn ý niệm
khác gây chướng ngại cho sự tu tập. Những ý niệm chỉ là trò chơi của tâm,
tựa như những gợn sóng trên nước, chợt khởi rồi tự tan
biến.
Ta có thể chú tâm vào những
chủng tự OM màu trắng, AH đỏ và HUM xanh, viết để trước mặt hoặc quán
tưởng trong tâm. Ba chữ trên tượng trưng cho thân, ngữ, ý của chư
Phật.
Trong lúc tu tập, những ý niệm
như "Ta đang thiền, ta không thiền, ta phải làm cho tâm yên lặng, ...",
đều phải dứt bỏ. Cần phải kiểm soát và điều khiển tâm an trú vào đề mục.
Hãy thực tập những khóa ngắn hạn nhưng thường xuyên. Nhờ sự tập luyện này
tâm sẽ trở về trạng thái sáng suốt, tĩnh lặng. Ðây là điểm thứ hai của
Thiền Ðịnh.
Chú thích:
[1] Bavardage ou commentaire
mental: thông thường những vọng niệm trong tâm thuộc 2 loại: suy nghĩ và
ảo tưởng. Suy nghĩ còn được gọi là nói chuyện trong tâm (bavardage
mental). Ảo tưởng là những hình sắc tưởng tượng hiện trong tâm (cinéma
mental).
Những đối
tượng
khác
Sau khi tập trung và định tâm
được trên một đối tượng hình sắc, ta có thể chuyển sang các đối tượng khác
như: âm thanh, đối tượng của nhĩ thức; mùi hương, đối tượng của tỷ thức;
mùi vị, đối tượng của thiệt thức; sự xúc chạm, đối tượng của thân thức.
Bất cứ lúc nào tiếp xúc với trần cảnh, ta cũng phải chú ý định tâm, ghi
nhận một cách khách quan, không khởi phân biệt khái niệm tốt, xấu, ưa,
ghét, v.v...
Ở trong hoàn cảnh nào ta cũng
có thể tu tập được. Nếu nơi ngồi thiền bỗng có người vặn nhạc, ta có thể
trụ tâm vào sự nghe mà không cần khởi xét đoán phân biệt xem đó là âm
thanh gì. Về xúc chạm hay mùi vị cũng vậy.
Khi tâm đã được tập luyện thuần
thục an trú vào đối tượng, ta nên ngưng nghỉ buổi tập trong lúc tâm còn
sáng suốt, như vậy sẽ tránh khỏi chán nản, mệt mỏi. Trong thời gian ngưng
tập ngoài các thời khóa ấn định, phải luôn luôn giữ chánh niệm, dù đi
đứng, nằm, ngồi hay nói, nín, động, tịnh; cắt đứt những ý niệm suy tư, xì
xào trong tâm. Ðây là điểm thứ ba của Thiền Ðịnh.
Nếu muốn sự tu tập được dễ
dàng, ta cần phải dứt bỏ việc đời. Nếu ôm nhiều việc đời, tâm sẽ luôn luôn
tính toán, rất khó điều trị, hoặc giả nếu ép tâm thì nó sẽ chán nản, mệt
mỏi và rơi vào hôn trầm.
Ðối trị hôn trầm và tán
loạn
Muốn đối trị hôn trầm và tán
loạn hãy quán tưởng ở ngay giữa trán một điểm tròn nhỏ bằng hạt đậu, màu
trắng, tỏa ánh sáng trong suốt và trụ tâm ở đó. Ðôi khi quán tưởng một
điểm nhỏ như trên màu đen, cũng tỏa ánh sáng nhưng nằm phía dưới khoảng
giữa hai đầu gối. Ðể đối trị hôn trầm, hãy chú tâm vào điểm trắng, thân
ngồi nơi thoáng khí, rộng rãi, lâu lâu có thể dùng nước mát lau mặt. Nên
mặt y phục nhẹ mỏng và ăn đồ dễ tiêu; không nên ngồi chỗ nóng, gần lửa
hoặc dưới mặt trời. Ngược lại nếu bị tán loạn, tâm dường như chạy khắp nơi
khắp chốn, thì phải quán tưởng và chú tâm vào điểm đen. Thân nên ngồi chỗ
nóng ấm, hay tập thể dục và ăn những đồ bổ, lâu tiêu.
Hôn trầm và tán loạn là những
chướng ngại lớn nhất cho sự tu thiền. Hôn trầm khiến cho hành giả không
còn nhìn rõ đối tượng và trở nên đờ đẫn. Màu trắng có công năng đối trị
hôn trầm; ban đầu hành giả có thể dùng một miếng vải trắng để trước mặt,
và mỗi khi hôn trầm thì chú tâm vào đó. Mặt khác, nếu ngồi dưới mặt trời
hoặc nơi nóng bức sẽ dễ bị buồn ngủ, do đó cần phải ngồi nơi mát mẻ và
thoáng khí. Sự ảnh hưởng của thức ăn cũng quan trọng không kém. Ăn những
món nhẹ dễ tiêu sẽ giúp tâm trở nên nhẹ nhàng, sáng suốt.
Tán loạn thì ngược lại, luôn
luôn khích động và lôi kéo tâm ra khỏi đối tượng quán chiếu. Chú tâm vào
điểm đen phía dưới sẽ hãm tâm lại và màu đen có công năng giảm sự kích
thích của tâm. Bị tán loạn nhiều là do ảnh hưởng của những luồng nguyên
lực quá nhanh nhẹ, dùng thức ăn bổ và lâu tiêu sẽ khiến những luồng này
chảy chậm lại, nhờ đó tâm bớt phóng.
Muốn tu tập dễ dàng cần phải
biết điều hòa cơ thể, vì giòng tâm thức nương chảy trên những luồng nguyên
lực qua các sạn đạo của thân vi tế [1]. Ðiều hòa thân (thô kệch) cũng tức
là điều hòa tâm.
Hãy nên ngừng nghỉ trong lúc
tâm còn sáng suốt và sẽ tiếp tục lại sau. Nên chia sự tu tập làm nhiều
thời khóa ngắn nhưng đều đặn. Ðây là điểm thứ tư của Thiền
Ðịnh.
Chú thích:
[1] Corps subtil: theo Mật
giáo, con người có 2 thân: thân thô kệch (corps grossier) bằng thịt bằng
xương, và thân vi tế (corps subtil) cấu tạo bởi các kinh lực.
Thiền Ðịnh không sự
tướng
Trong phần tu tập này hãy mở
mắt nhìn thẳng vào khoảng trống hư không trước mặt, không trụ tâm trên một
đối tượng nào cả.
Hư không cũng tương tợ như tánh
của tâm, không lệ thuộc vào sự giả hợp của nhân duyên. Quán chiếu hư không
trước mặt là một phương pháp chuẩn bị để quán chiếu thẳng vào
tâm.
Pháp quán chiếu thẳng vào tâm
không qua sự tướng rất thường trong Mật tông, nó tập cho hành giả làm quen
với trạng thái trung ấm (bardo) và trở về với Pháp thân. Thiền quán không
sự tướng không có nghĩa là làm cho tâm trống rỗng, mơ mơ màng màng, như
ngu như ngây. Ngược lại đó là một trạng thái rất tỉnh thức, trong sáng và
vắng lặng.
Không khởi tâm suy nghĩ về quá
khứ, hiện tại hay vị lai. Hãy trụ trong tĩnh lặng của "bây giờ và ở đây".
Luôn tỉnh táo và chăm chú quán sát tâm như đang xỏ một mũi kim nhỏ. Hảy xả
bỏ mọi hy vọng và lo âu. Khi hoàn toàn tỉnh thức vắng lặng thì những ý
niệm cũng mất dạng. Thoảng như hơi thất niệm xao lãng thì ý niệm sẽ tiếp
nối nhau khởi lên tới tấp, gặp trường hợp này hãy tập nhận diện và nhìn
thẳng vào chúng khi chúng vừa khởi. Không nên nghĩ "ta phải ngăn chặn
chúng", hoặc "ta đã tiêu diệt chúng" v.v... hãy ghi nhận chúng một cách
khách quan không dính mắc và dùng ngay chúng làm đối tượng quán sát. Cẩn
thận giữ tâm không quá căng thẳng cung không xao lãng. Ðây là điểm thứ
năm.
Khi mới tu tập thiền, ta có cảm
tưởng như các ý nghĩ khởi lên không ngớt. Ðó chẳng qua vì ta bắt đầu quay
trở vào trong, biết nhìn và ý thức được sự hiện khởi của
chúng.
Tâm và những ý niệm không phải
là một cũng không phải hai. Nếu là một thì không thể nào tu tập trở về bổn
tâm và cùng lúc loại trừ ý niệm. Nếu là hai (vật khác biệt) thì cái bàn,
cái ghế cũng có thể khởi ý niệm được. Tâm trong sáng ví như mặt gương, ý
niệm ví như hình ảnh trong gương; hình ảnh không phải là gương nhưng cũng
không thể tách rời gương được.
Ý niệm dấy khởi bắt nguồn từ sự
lầm quên thực tánh của các pháp. Có nhiều loại ý niệm hay vọng tưởng: thô
và tế. Thí dụ, khi ta đang quán chiếu về một cái ly, bỗng nhiên ý niệm
"muốn uống trà" khởi lên thế rồi ta liền gọi người đi pha trà cho ta. Ðó
là ý niệm thô, vì nó dẫn ta hoàn toàn ra khỏi đề mục. Những ý niệm như
"đây là một cái ly, cái ly này bằng sành" hoặc bất chợt chú ý đến một âm
thanh thay vì định tâm vào cái ly; đây thuộc loại vi tế. Phải luôn tỉnh
thức nhận diện những ý niệm hiện khởi, ghi nhớ chúng chỉ là trò huyễn (ảo
đồ) của tâm như những hình ảnh trong gương, không nên dính mắc, cứ để
chúng tự khởi tự diệt.
Ðịnh tâm trên hơi
thở
Còn một phương pháp khác, đó là
trụ tâm vào hơi thở. Hãy điều phục hơi thở theo cách "hít-thở-bình"
(respiration-vase). Nếu không thể giử lâu cách "hít-thở-bình" thì có thể
"đếm-hơi-thở". Hít vào thở ra đếm một. Ban đầu tập đếm tới 21 sau đó tăng
dần đến 100. Cố gắng giữ chánh niệm trong suốt thời gian hít
thở.
Như đã nói ở phần
trước, tâm liên hệ mật thiết với các luồng nguyên lực hay khí lực. Hít thở
một cách loạn động sẽ khiến ý niệm theo đó mà dấy khởi. Hít thở một cách
nhẹ nhàng đều đặn thì tâm cũng trở nên yên lặng.
Có nhiều loại hít thở. Cách
thông thường là hơi thở của một ngườI không bệnh tật, không xúc động hay
kích thích. Cách hít thở cỡ trung là hít vào, giữ hơi lại một chút rồi thở
ra. Cách hít-thở-bình là hít hơi vào, hóp những cơ vòng (sphincter) và giữ
hơi lại. Cách hít thở này cũng chia làm nhiều loại: đại, tiểu, nội, ngoại.
Ðại: giữ hơi giữa rún và cổ họng; tiểu: giữ hơi ngay rún; nội: hít vào rồi
giữ ở trong; ngoại: thở ra hết rồi nín hơi.
Thông thường cách hít-thở-bình
có 4 đặc tính: 1) giữ hơi, 2) làm giản những thớ gân ở bụng, 3) có thể
khiến hơi khí thoát ra ngoài bằng những lỗ chân lông hoặc trở vào sạn đạo
trung ương, 4) sau khi giữ hơi thật lâu, có thể tống luồng khí lực ra
ngoài xuyên qua đường sạn đạo nơi đỉnh đầu.
Cách hít-thở-bình thuộc loại tu
tập khó và nguy hiểm, chỉ được dạy sau khi đã hoàn tất các pháp dự bị tu
tập. Nếu không tu tập đứng đắn, những luồng khí lực sẽ chạy loạn xạ, sanh
ra tổn khí, tâm thần cáu kỉnh và có thể loạn trí.
Khi hôn trầm và loạn tưởng kéo
đến, hãy dùng phương pháp đối trị ở trên. Nếu không thể định tâm được trên
những đối tượng trình bày ở trước thì có thể lựa một vật hay đề mục mà cảm
thấy thích hợp. Vì căn cơ mỗi người không đồng, có người sau khi nghe
giảng hai, ba lần liền có thể an trụ được tâm, có người lại không an trụ
được tâm dù đã tu tập thiền định lâu ngày. Ngoài ra cũng cần sự hướng dẫn
của một vị Thầy từng trải kinh nghiệm để giải tỏa những khúc mắc và chướng
ngại khi tu tập. Tu tập đều đặn, ta sẽ trải qua ba giai đoạn điều tâm.
Giai đoạn thứ nhất, vọng tưởng hay ý niệm thô khởi lên rất nhiều tựa như
thác nước đổ. Giai đoạn thứ hai, vọng niệm thô giảm dần, lâu lâu mới phát
hiện nhưng ta nhận diện được ngay và nó liền biến mất, ở đây tương tợ như
giòng sông chảy mạnh. Giai đoạn sau cùng, tất cả vọng niệm thô, tế đều tan
biến và ta an trụ trong trạng thái bất nhị, như sông nhập biển lớn. Ðến
trạng thái này, tiếp tục gia công không gián đoạn. Ðây là điểm thứ
sáu.
Ðối trị bằng
c
ăng thẳng
và buông
thả
Sau thời gian tu tập mà vẫn
chưa đạt đến giai đoạn thứ ba, ta cần phải dùng đến phương pháp làm cho
tâm căng thẳng rồi thả lỏng và dung hòa cả hai trạng thái. Ðể làm căng
thẳng (khi tâm lơ là thất niệm) hãy ngồi thẳng lưng, tư thế ngay ngắn, mở
to mắt và nhìn hơi xa rồi chú tâm vào cảm giác và tri giác. Tỉnh giác chăm
chú như mèo rình chuột, không để cho tâm phóng đi một giây phút. Hãy tập
làm nhiều thời khóa ngắn. Nếu tâm quá căng thẳng, hãy xả thiền, tập thể
dục hay làm việc khác rồi sau đó tập trở lại.
Tiếp theo, không chú tâm vào
vật gì nữa cả, hãy để nó tự nhiên thoải mái trong trạng thái buông thả,
không còn biết có một cái Ta hay những điều lo âu. Cứ thế tự tâm sẽ trở về
trạng thái vắng lặng của nó, không cần phải làm gì thêm hay cố gắng cả.
Hãy trụ trong bây giờ và ở đây. Ngoài việc này ra chả còn gì để quán tưởng
hay suy nghĩ cả. Nếu có thể hãy tăng thêm thời gian tọa thiền.
Thoạt khi có những ý niệm hiện
khởi, ta chỉ cần nhìn thẳng và nhận diện chúng, không cần xua đuổi hay
ghét bỏ. Dù tâm tĩnh lặng hay loạn niệm cũng đừng khởi vui mừng hay chán
nản.
Không thể đạt được trạng thái
vô niệm bằng cách ngăn chặn hay đè nén ý niệm. Chỉ cần chú ý nhận diện
chúng, chúng sẽ tự diệt và trạng thái vô niệm được hiển lộ. Ðây là điểm
thứ bảy.
Chánh
định
Sau đây là phần tăng trưởng
trạng thái Ðịnh và nhận rõ bản tánh của tâm. Theo định nghĩa, chánh định
là một trạng thái trong đó tâm hoàn toàn vắng lặng, không còn chút vọng
động dù là ý nghĩ hay khái niệm, không còn hôn trầm, tán loạn hay nghi
ngờ. Trước đây phải khổ nhọc tu tập mới đạt đến, nhưng nay trạng thái này
được đạt đến một cách dễ dàng và ta cảm thấy an nhiên tự tại tựa hồ không
còn vướng bận vào gì nữa. Ngay cả lúc xả thiền, dù đi hay đến trạng thái
này vẫn thường trụ.
Tương tợ trường hợp của một con
chim bồ câu, được thả tự do từ một chiếc tàu trên biển cả, nó không làm gì
khác hơn là, sau khi bay đảo nhiều vòng, trở về đậu lại trên tàu. Cũng
vậy, một khi đã đạt được chánh định, dù nói năng hay hoạt động, tâm sẽ
không làm gì khác hơn là trở về trạng thái vắng lặng.
Dù làm bất cứ việc gì đi nữa
tâm vẫn luôn luôn vắng lặng, thoải mái, tỉnh thức, chiếu soi và nhận diện
tất cả các pháp nhưng hoàn toàn không dính mắc vào chúng.
Luôn luôn giữ tâm vững chắc như
núi Tu Di, trong sáng như mặt gương phản chiếu mọi vật. Không nên nóng nảy
hay tò mò vì sẽ làm khơi động các ý niệm. Hãy tập tự chủ và để tư tưởng
cùng các hình ảnh trôi chảy tự nhiên mà không dính mắc vào chúng. Ngay cả
khi đi trên đường, nếu có một vũ nữ xuất hiện múa may ca hát, cũng không
được hiếu kỳ để ý. Tự chủ và giữ được tâm vắng lặng trong mọi hoàn cảnh,
đó là biểu hiệu của chánh định.
Khi đạt đến trạng thái này, ta
sẽ gặt hái được ba điều: sự an lạc, sáng suốt và vô niệm. Từ đó có thể
phát sanh nhiều loại thần thông như thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, v.v...
Ðến trường hợp này cần phải đề cao cảnh giác không được khởi tâm ưa thích
tìm cầu hay dính mắc, vì chúng hoàn toàn không có tự tánh. Dính mắc vào
chúng sẽ là nhân trói buộc vào sinh tử luân hồi.
Ba kết quả: an lạc, sáng suốt
và vô niệm là những trợ duyên cần thiết cho sự Thiền Quán phát sanh trong
toàn tánh Không của nó. Nếu dính mắc vào một trong ba điều trên, không
ý thức được sự giả hợp của chúng sẽ dẫn đến tái sanh ở các cõi trời:
Dục giới nếu ưa an lạc, Sắc giới nếu ưa sáng suốt, Vô Sắc giới nếu ưa vô
niệm.
Cần phải tu tập dưới sự hướng
dẫn của một vị Thầy. Cả Thầy lẫn trò đều không được lầm lẫn về phương pháp
cũng như thành quả gặt hái trong tiến trình tu tập Thiền Ðịnh. Ðiều quan
trọng cần nhớ là không bao giờ để tâm bị thu hút hay dính mắc vào dục vật,
luôn luôn thành tâm biểu lộ sự tôn trọng và kính mến vị Thầy của mình.
Phát triển chí nguyện giác ngộ, cầu giải thoát để cứu độ sáu loài chúng
sinh. Trong mỗi thời đều tập trung tâm ý không cho xao lãng.
Nguồn gốc của mọi thành tựu đều
xuất phát từ sự tôn kính và lòng tin tưởng vững chắc nơi vị Thầy (Lama)
của mình. Phối hợp với chí nguyện tối thượng của Bồ Ðề Tâm chắc chắn sẽ
dẫn đến Phật quả. Vô thường có thể xảy đến bất cứ giờ phút nào, không nên
lập những dự án phù du như "năm tới ta sẽ mua nhà, cưới vợ, sẽ có 3 con và
sẽ dành cho chúng những phòng nhỏ, đẹp, và ... ", v.v... Hãy sống với hiện
tại nhưng không rời mục đích giác ngộ. Nếu dự định nhập thất 3 ngày hoặc 7
ngày hãy làm đến nơi đến chốn. Không nên bỏ dở nửa chừng, vì đó chính là
nguyên nhân của thất bại.
Không nên chạy theo những cám
dỗ của cuộc đời, như nịnh hót bề trên để được lợi dưỡng hoặc dựa uy thế để
nhục mạ kẻ khác. Hãy noi gương Milarépa, sống đời du phương, ẩn dật, không
cần chủ tớ hầu hạ, xa lìa mọi dục lạc thế gian.
Nếu tu tập tinh tấn đúng như
pháp, chắc chắn sẽ gặt hái nhiều thành quả và sự hiểu biết chân chánh. Ðây
là điểm thứ tám (của sự tu tập chánh định).