ĐẠI THỦ ẤN
(Mahamudra)
Ouang
Tchuk Dorjé
Thích Trí Siêu dịch
CHƯƠNG
III
Thiền
quán
Quán chiếu tâm an
tịnh
Phần hai của sự tu tập (chính
yếu) là Thiền Quán hay quán chiếu thâm sâu. Cũng như trước, ta phải ngồi
trong tư thế vững chắc (Kim Cang tọa), nhưng lần này cách nhìn rất ư là
quan trọng. Hai mắt không còn khép hờ, nửa nhắm nửa mở, không được liếc
ngó lung tung hay thay đổi điểm tựa. Ngược lại, với sự tập trung sắc bén,
mãnh liệt, ngó thẳng đằng trước, tầm mắt hướng nhẹ lên khoảng trống hư
không trước mặt.
Trong phần tu Thiền Ðịnh, tâm
dần dần trở nên vắng lặng tựa như một tấm gương sáng. Tiếp theo, với Thiền
Quán, ta quán sát thể tánh của tấm gương cùng những hình ảnh trên đó. Cách
quán sát (tầm mắt) cũng thay đổi. Trong lúc tu Thiền Ðịnh, hai mắt thả nhẹ
và nhìn xuống phía trước. Nay tu Thiền Quán, hai mắt chú ý nhìn kỹ hướng
nhẹ lên trên phía trước mặt, điều này sẽ khiến tâm tỉnh giác và bén
nhạy.
Bây giờ hãy đặt tâm trong trạng
thái yên tịnh, buông thả tự nhiên, không khởi niệm hay ý thức về một cái
"Ta", không lo nghĩ. Sau đó gia tăng từ từ sự tập trung tâm ý khiến nó trở
nên sáng suốt và bén nhạy.
Ðến đây bắt đầu quán sát kỹ
lưỡng thể tánh của tâm trong lúc nó đang ở trạng thái hoàn toàn vắng lặng.
Thể tánh của tâm ra sao? Có hình tướng, màu sắc hay kích thước không? Có
khởi điểm, kết thúc hay tồn tại không? Nó ở trong, ở ngoài hay ở đâu?
Ngoài trạng thái an tịnh này ra, còn một ý thức nào khác không? Chả còn gì
khác hơn sự rỗng lặng không thể định nghĩa chăng? Hoặc giả trong trạng
thái an tịnh này, có một ý thức hay một "cái biết" mặc dù không thể định
nghĩa (là cái này hay cái kia) trong sáng, thanh tịnh không thể diễn tả
bằng lời (như một người câm không thể diễn tả vị ngọt của đường)? Tánh của
tâm an tịnh này phải chăng là một vùng u tối vô tận? Hay một trạng thái
sáng suốt bén nhạy?
Tất cả những nghi vấn quan
trọng trên đều liên quan mật thiết đến cái mà ta thường gọi là "bổn tánh"
(nature primordiale) hay thực tánh của tâm.
Nhận ra được thực tánh của tâm
(còn gọi là Phật tánh) đó là giác ngộ. Ngược lại, nếu chìm đắm trong lầm
lẫn, bao phủ bởi bóng tối và vô minh, đó là luân hồi và tự tạo khổ
đau.
Bởi vậy, khi vị Thầy (Lama)
thăm hỏi về diễn tiến của sự tu tập, nếu ta trả lời bằng khái niệm trí
thức hoặc lập lại như một con vẹt những gì đã được nghe như thuật ngữ Pháp
thoại (kỳ quặc mà ta không hiểu nghĩa) hoặc tệ hơn nữa, với tâm còn nô lệ
tám tình đời [1] muốn làm cho Thầy mình kinh ngạc, ta trả lời rằng đã
chứng nghiệm được nhiều điều đặc biệt, kỳ bí mà chính bản thân chưa hề đạt
đến. Nếu trả lời như vậy, vô tình ta đã tự đắp lên mắt một màn lưới đục và
tự lừa dối mình mà thôi. Hơn nữa nếu đã thọ giới thì ta lại phạm vào giới
cố nói dối về sự chứng đắc (vọng ngôn). Do đó, ta không nên bịa đặt hay
tưởng tượng mà cần phải thành thật trình bày những kinh nghiệm thực có
trong lúc tu tập.
Không nên mắc cở hay ngại rằng
kinh nghiệm của ta tồi tệ, không có gì đặc sắc. Thí dụ sau khi quán sát
tâm, nếu cảm thấy nó màu trắng, ta hãy thưa thật như vậy. Có thể vị Thầy
sẽ bảo ta nhìn kỹ lại xem nó có phải màu vàng không? Sau một thời gian,
nếu ta trở lại đáp rằng: "nó màu vàng", vị Thầy sẽ trả lời ta: "Không, nó
không vàng cũng không trắng". Qua sự thưa hỏi, vấn đáp thành thật như
trên, vị Thầy ấy sẽ hướng dẫn ta nhận ra thực Tánh của tâm. Nếu tu tập hay
quán chiếu một mình, nhiều khi bổn tánh có thể hiện bày mà ta vẫn không
hay biết. Do đó cần phải nương tựa một vị Thầy và phải hết sức thành thật;
nếu không, vị Thầy ấy cũng không thể giúp gì được cho ta cả. Vấn đề quan
trọng cần được ý thức ở đây là sự mong cầu giác ngộ, giải thoát khổ đau
của chính ta, chứ không phải là một trò giải trí.
Hãy chăm chú quán sát tâm. Sau
đó ngưng một chút rồi trở lại quán sát tiếp. Muốn cho sự quán sát được dễ
dàng, ta cần để tâm an trụ trong trạng thái tĩnh lặng, trong sáng tựa như
bầu trời không một chút mây. Tiếp theo chăm chú, dùng hết sức bình sinh
nhìn kỹ xem tánh của tâm (nature de l’esprit) ra sao? Ðây là nguyên nhân
đầu tiên dẫn đến sự nhận diện nó. Thêm vào đó, vị Thầy cần phải thăm hỏi
các đệ tử, hướng dẫn họ tùy theo cá tính và trình độ. Nếu cần, vị Thầy có
thể thúc giục hoặc lập lại nhiều lần một câu hỏi để xem câu trả lời của đệ
tử phải chăng do hiểu biết trí thức, tưởng tưởng phù du hay trực nghiệm
vững chắc. Về phần đệ tử, cũng phải thành thật trình bày. Ðây là điểm thứ
nhất của Thiền Quán: quán chiếu tâm an tịnh.
Chú thích:
[1] Huit attitudes mondaines:
Hán Việt thường dịch là "bát phong".
Quán chiếu
tâm dao động
Muốn dứt tuyệt gốc rễ của vô
minh, ta cần phải quán chiếu tiếp tâm dao động hay giòng ý niệm (tư tưởng)
và nhận ra thực tánh của nó. Bắt đầu trong tư thế tĩnh tọa và hướng tầm
mắt như ở phần trước. Sau đó điều khiển tâm từ từ đến trạng thái an lạc,
sáng suốt, vô niệm. Sau khi hoàn toàn an trụ trong trạng thái này, hãy để
cho một ý niệm tự khởi lên, nếu không có thì cố ý khởi lên hoặc suy nghĩ
về một vấn đề nào đó.
Khi một ý niệm bắt đầu khởi,
hãy quán sát nó, xem nó có hình dáng màu sắc không? Khởi lên từ đâu, tồn
tại chỗ nào và tan biến ở đâu? Nó nằm ở trong hay ở ngoài thân? Nếu ở
trong thì phải chăng ở tim, gan, phổi hay đầu, óc, v.v...? Dù ở trong hay
ở ngoài, hãy quán sát xem nó tồn tại ra sao? Khởi lên thế nào? Cứ thế mà
quán chiếu.
Thể tánh của tâm dao động này
ra sao? Có nguyên nhân hay không nguyên nhân? Có khởi điểm, chấm dứt, màu
sắc hay hình dáng không? Nếu có, nó ra sao? Nếu ta cho rằng nó không thể
được định nghĩa hay khái niệm như trên, vậy làm sao hiểu được nó? Phải
chăng nó là tri thức hay một tánh biết vô thỉ vô chung? Khi quán chiếu về
một ý niệm, ta có thấy rằng tất cả ý niệm đều trống rỗng, không lệ thuộc
vào hành uẫn, không đầu, không đuôi?
Sau khi một ý niệm tan biến, nó
có để lại dấu vết nào không? Tất cả ý niệm khởi lên, có thể nắm bắt và
nhận định được không? Hãy quán chiếu. Nếu bảo rằng không thể nhận định
được, vậy khi tâm ý thức được một ý niệm đang khởi, thử hỏi ý niệm đó có
(hiện hữu) hay không?
Ta có thể đặt vô số câu hỏi như
trên. Thí dụ như: "Tôi gặp một người bạn hôm qua". Ý niệm này từ đâu đến?
Ðang ở đâu? Cấu tạo ra sao? Ý niệm này có cùng một hình dáng với người bạn
không? Hình dáng này có phải chính là bản thân người bạn không? Khi ý niệm
này trôi qua, nó có để lại dấu vết nào không, hay giống như một chùm mây
tan biến trên bầu trời? Nếu bảo rằng ý niệm (về người bạn) vừa rồi không
có thực chất và không thể tìm thấy, vậy cái ý niệm vừa bảo (rằng ý niệm
trước không có) đó có hay không có? Nếu một người câm không thể diễn tả
được ý nghĩ của họ, phải chăng họ không có ý nghĩ?
Nếu đặt câu hỏi đối với một ý
niệm như trên, ta có thể hỏi cho đến chết cũng chưa hết. Khi bị quấy nhiễu
bởi những tên ăn trộm, nếu ta bắt được một tên và đem ra trừng phạt trước
công chúng nhiều lần, chắc chắn những tên còn lại sẽ không còn dám đến phá
phách ta nữa. Ðối với ý niệm hay vọng tưởng cũng vậy. Những câu hỏi kiên
nhẫn và "hóc búa" [1] sẽ làm chúng giảm sức mạnh, không dám bén mảng
thường xuyên. Nếu có trở lại thì cũng yếu dần và không còn làm phiền ta
nhiều. Như thế dần dần ta mới có thể nhìn rõ thực tánh của tâm và của các
ý niệm.
Khi một ý niệm được khởi lên,
tự nhiên hoặc cố ý, hãy quán sát nó một cách khách quan, không ngăn cản
cũng không dính mắc. Nếu có những cảm giác khổ vui cùng phát sanh với nó,
ta cũng quán sát như trên. Không cần đếm biết có bao nhiêu ý niệm đã khởi,
chỉ cần nhìn thẳng và quán sát chúng, không tham dự hay gán thêm cho chúng
những ý nghĩ tốt, xấu, v.v...
Khi thấy rằng tánh của những ý
niệm là một cái biết trong sáng, lúc đó hãy tìm lại và so sánh nó với cái
biết trong sáng đạt được trong lúc tâm an tịnh. Nếu không thấy khác biệt,
lúc đó hãy ngưng mọi suy tư và trụ tâm vào trạng thái sáng suốt, rỗng
lặng. Ở trạng thái này, nếu bỗng nhiên có một ý niệm khởi lên, hãy nhìn
thẳng vào thực tánh của nó để thấy rằng nó không có hiệu lực nào làm dao
động cái tánh biết (sáng suốt, rỗng lặng) nguyên thỉ.
Một ngọn sóng trồi lên, sụp
xuống có làm rung chuyển đại dương không? Một cụm mây có ngăn ngại được hư
không chăng?
Hãy chăm chú quán chiếu để trực
nghiệm thấy được những điều trên. Tóm lại, khi vị Thầy và đệ tử cùng nhau
đạt đến kết luận rút tỉa từ sự thấu hiểu (sau khi quán chiếu) về các ý
niệm hiện khởi nơi đệ tử, tức thì gốc rễ vô minh bị cắt đứt và bổn tánh
của tâm hiển lộ. Ðây là điểm thứ hai của Thiền Quán.
Chú thích:
[1] Về ý niệm có thể chia làm
hai loại:
1/ ngược dòng: đây là những
ý niệm phân tách, tìm tòi nguyên nhân của một việc, nó là một phần của
trí huệ (thí dụ như những câu hỏi "hóc búa") có công năng kéo tâm trở
về gần bổn tánh hay thực tại.
2/ xuôi dòng (đời): đây là những ý
niệm suy nghĩ tính toán chuyện thế gian liên quan đến cái Ta (ngã) lôi
dẫn hành giả ra khỏi đề mục quán chiếu. Do đó được xem là vọng
niệm.
Những ý niệm ngược dòng không
hẳn là chánh niệm mà chỉ là phương tiện thiện xảo đối trị vọng niệm,
khai mở dần trí huệ, tương tựa như những công án thiền.
Quán chiếu tâm chiếu soi cảnh
vật
Ðể thấu hiểu tính bất khả phân
chia giữa tâm và cảnh, ta phải tiếp tục quán chiếu tâm khi nó chiếu soi
cảnh vật (với một tri giác thuần túy). Ngồi trong tư thế tĩnh tọa như ở
phần trước, tập trung tâm ý hướng mắt về một vật như: bình hoa, bức tranh
hay bất cứ hình sắc nào đặt phía trước mặt. Hãy nhìn một cách kỹ lưỡng,
sau đó giảm dần cường độ, rồi lại gia tăng.
Tương tựa như thế, ta có thể
chú tâm vào một tiếng động, một âm thanh đối tượng của nhĩ thức, quán
chiếu xem tánh của một âm thanh êm dịu và khó chịu là một hay khác? Quán
chiếu âm thanh giọng nói của chính mình và của người khác, v.v... Cứ thế,
quán chiếu đối tượng của 5 căn, tức 5 trần: sắc, thanh, hương, vị,
xúc.
Khi tâm tiếp xúc chiếu soi cảnh
vật, tâm và cảnh là một hay hai thực thể biệt lập? Cảnh vật đi từ bên
ngoài vào tâm hay tâm (năng chiếu) phóng ra đến cảnh vật và nghĩ rằng: "Ta
sẽ chiếu soi chúng"? Thật ra tâm và cảnh không thể tách rời (giống như mặt
gương và hình ảnh trong gương).
Hãy quán sát tánh biết (nhận
thức) khi nó tiếp xúc với 5 trần. Nhìn kỹ xem có sự khác biệt nào giữa
tánh biết (tâm) và 5 trần (cảnh) không? Khi nhìn một vật, vật ấy phải hoàn
toàn hiện hữu bên ngoài?
Khi ta nhắm mắt, vật kia có mất
không? Khi ta lấy hai tay che mắt, cảnh vật bên ngoài trở thành u tối
chăng?
Nếu trả lời là không, tức đương
nhiên công nhận tâm và vật là một, không khác. Nếu bảo tâm và vật là hai
và vật thực sự có (hiện hữu) bên ngoài, vậy cái tâm hay biết (vật đó) ở
đâu? Nó nằm ở trong hay ở ngoài vật? Hãy cẩn thận, quán chiếu kỹ
lưỡng.
Tiếp theo, ta quán chiếu về
thân và tâm xem là một hay khác. Thân do tứ đại giả hợp, vô thường sinh
diệt, còn tâm thì tự tánh bất sinh bất diệt, vô thỉ vô chung, làm sao có
thể là một được? Nếu bảo là khác thì phải nhận định và tách rời được đâu
là thân, đâu là tâm. Nhưng tâm không phải một vật mà ta có thể xác định
được vị trí của nó. Nó không hẳn nằm ở phía trên hay phía dưới thân thể,
mà nó nằm ở khắp châu thân. Nếu không như vậy, làm sao có thể biết được
rằng ta đau nhức ở đâu?
Thân và tâm liên hệ nhau như
năng và sở (như tách trà và trà được chứa). Nếu bảo rằng thân ở ngoài, tâm
ở trong như hai vật cách biệt, vậy khi xảy đến một cảm giác thì cái nào
hay biết? Nếu bảo thân hay biết thì xác chết kia (không còn tâm) cũng phải
hay biết chứ! Nếu bảo tâm hay biết tức thân và tâm không thể là hai vật
hoàn toàn khác biệt.
Mặt khác, tâm là vật vô hình
tướng, không thể giết hại hay đánh đập, vậy khi thân bị kim chích, sao tâm
cũng biết đau? Phải chăng nếu chích vào thân, ta cũng chích luôn tâm? Hãy
quán chiếu kỹ lưỡng trước khi kết luận.
Cần biết rằng thân và tâm không
phải là một cũng không phải khác. Trên phương diện tương đối thì chúng tựa
như đồ chứa và vật bị chứa, nhưng tuyệt đối thì chúng không phải là hai
thực thể hiện hữu riêng biệt.
Tương tựa như thế, ta cần hiểu
rõ sự liên quan giữa cảm giác và tâm chẳng khác gì sóng và nước. Tiếp tục
quán chiếu như vậy cho đến khi nào thấu hiểu hoàn toàn về bổn tánh của
thực tại. Ðây là điểm thứ ba của Thiền Quán.
Quán chiếu cùng lúc tâm an tịnh
và tâm dao
động
Hãy đặt tâm trở lại trạng thái
trong sáng, rỗng lặng, và quán sát tánh của nó. Sau đó khởi lên một ý niệm
và cũng quán sát tánh của nó. Nhìn kỹ xem hai tánh này là một hay khác?
Nếu bảo là khác thì khác chỗ nào? Tâm an tịnh và tâm dao động xuất hiện
cùng một lúc hay luân phiên nhau, cái này trước, cái kia sau? Tâm an tịnh
có giống như một cánh đồng trong đó tâm dao động khởi lên như những cây
lúa chăng? Hoặc giả cả hai đều giống nhau tựa như một cuộn dây và những
sợi chỉ dệt nên nó? Khi tâm an tịnh, không mảy may vọng niệm, nó có di
chuyển không? Khi tâm dao động (khởi niệm), nó có cùng lúc an tịnh không?
Chắc chắn phải có sự khác biệt giữa hai tâm, vì tâm dao động hay suy nghĩ,
khái niệm sự vật, trong khi đó tâm an tịnh lại không mảy may vọng động,
rỗng lặng như như. Nhưng nếu cho rằng hai tâm này tánh khác nhau, vậy khác
nhau ở màu sắc, hình dáng chăng? Khác nhau ở sinh, trụ, diệt hoặc ở quá
khứ, hiện tại, vị lai, hoặc ở thường, vô thường? Hãy quán chiếu kỹ lưỡng
xem sự khác biệt nằm ở đâu?
Kiên nhẫn tu tập, quán chiếu về
sinh khởi của ý niệm, ta sẽ hiểu tánh của tâm an tịnh và tâm dao động chỉ
là một, nó thay phiên nhau hiện khởi. Khi tâm đứng lặng thì không có gì di
động; khi tâm di động thì không có gì đứng yên cả, như nước và sóng. Hiểu
rõ tánh không hai của tâm, đó là đã giác ngộ được một phần
nhỏ.
Tâm tựa như một tấm gương sáng,
luôn luôn chiếu soi dù có hay không có cảnh vật.
Từ nay mỗi lần thiền quán, ta
phải quán chiếu tiếp tục những ý niệm, xem nó có phải là một phần của
"tánh rỗng lặng" [1], hay nó tan biến rồi nhường chỗ lại cho "tánh rỗng
lặng"?
Nói một cách khác, phải chăng
khi mặt trời ló rạng, ta mở cửa sổ, tức thì bóng tối tan hoà vào ánh sáng?
hay bóng tối chạy đi nơi khác nhường chỗ lại cho ánh sáng?
Hoặc giả chính ý niệm tự thân
nó cũng là rỗng lặng? Nếu cho rằng một trong hai giả thuyết trên là đúng,
ta phải thành khẩn tham vấn vị Thầy cầu gia hộ, và sau đó trở về cố gắng
quán chiếu một lần nữa để thấu hiểu thế nào là thực tánh của các
pháp.
Cách thức quán chiếu (thực)
tánh của tâm có thể chia làm 3 loại tùy theo căn tánh của hành
giả:
1) Tu tập Thiền Quán trước
rồi đến Thiền Ðịnh.
2) Tu tập cùng lúc Thiền Quán và Thiền
Ðịnh.
3) Tu tập Thiền Ðịnh trước rồi đến Thiền
Quán
Loại 1) và 2) thường thích hợp
với người nghiệp nhẹ, căn tánh lanh lợi. Người căn tánh trung bình nên tu
tập theo loại 3) với sự chỉ dẫn thứ tự mạch lạc như đã trình bày ở các
chương trước.
Hãy tinh tấn tu tập, không nên
giải đãi, tăng trưởng lòng tin và kính trọng đối với vị Thầy. Củng cố sự
tập trung tâm ý không để xao lãng, không mong cầu cũng không lo
sợ.
Nếu cố gắng tu tập quán chiếu
tâm (cộng thêm chí nguyện Bồ Ðề), chắc chắn sẽ trực ngộ nhanh chóng tánh
giác nguyên thỉ (bổn tánh). Ðến đây, hãy dứt bặt các ý niệm nghi vấn về
tâm an tịnh và tâm dao động. Ðây là điểm thứ tư.
Chú thích:
[1] Vacuité thường được dịch
là tánh Không, nhưng ở đây tôi dịch là "tánh rỗng lặng" vì tánh Không
trừu tượng và hay gây nhiều hiểu lầm
Nhận ra tánh của tâm an
tịnh
Thực ra vị Thầy không cần ra
tay chỉ bày, nếu ta tinh tấn tu tập y theo những lời chỉ dẫn ở trước, thì
bổn tánh sẽ hiển lộ tự nhiên. Song le có nhiều người dù tinh tấn vẫn không
thể nhận ra. Lại có một số khác, chưa bao giờ đạt được kinh nghiệm trực
tiếp, nhưng nhờ đọc sách nghe Kinh, có được sự hiểu biết khái niệm, lại
bày đặt dùng những thuật ngữ, Pháp ngữ diễn tả bổn tánh. Do đó vị Thầy cần
phải có khả năng nhận định căn tánh của đệ tử, và đệ tử cũng phải luôn
thành thật với Thầy.
Sau khi xem xét quán chiếu tâm,
ta sẽ thâu thập được nhiều kinh nghiệm khác nhau, nhưng không biết đâu là
phải hay trái. Ở trường hợp này, địa vị của Thầy trở nên quan trọng, qua
nhiều phản ứng cùng chất vấn, vị Thầy ấy sẽ hướng ta đến gần bổn tánh bằng
cách xác định những điều ta thấy là kinh nghiệm trực ngộ hay chỉ là mường
tượng. Ðây gọi là khai thị, hay đúng hơn là giúp ta nhận
ra.
Sau đây là cách thứ nhất giúp
cho những người sơ cơ nhận ra bổn tánh (của tâm):
Sau khi điều tâm trở về trạng
thái an tịnh, hãy nhìn thẳng vào tánh của nó. Ðó là một vầng ánh sáng (hào
quang) trong suốt và linh động, không phải là hư vô. Trong trạng thái này
có một cái biết trong sáng, rộng tỏa, êm dịu, thông suốt, không thể định
nghĩa được. Không thể nói đó là cái này hay cái kia, màu này hay dáng nọ,
v.v... cũng không thể diễn tả bằng lời được. Dù không thể định nghĩa hay
diễn tả, cái biết nguyên thỉ, thanh tịnh chiếu soi rõ ràng mọi vật không
ngăn ngại, vẫn hiển lộ sờ sờ trước mặt. Cái biết này không phải là một cái
gì trước kia không thấy nay mới thấy, trước kia không kinh nghiệm, nay mới
kinh nghiệm, hoặc trước không biết nay mới biết.
Nó luôn luôn có mặt vì tánh của
tâm là thường hằng.
Thêm nữa ta phải ý thức chắc
chắn rằng nó không thể định nghĩa hay khái niệm được. Nếu chỉ có một sự
hiểu biết trí thức, văn tự, hào nhoáng cho rằng bổn tánh là một trạng thái
trong suốt, tĩnh lặng thì sẽ không bao giờ đạt được tiến bộ nào cả. Ngược
lại nếu thực sự đạt đến kinh nghiệm này qua thiền tập, đó là ta đã thấy
được tánh của tâm an tịnh. Ngoài sự tu tập Thiền Quán, không còn cách nào
khác để trực nhận được tánh này. Nếu vị Thầy giảng nói quá sớm (trước khi
ta thực sự chứng nghiệm), ta sẽ dính mắc vào hiểu biết khái niệm chết cứng
và dần dần sẽ chán nản. Dù cố gắng giảng giải đi nữa, điều đó cũng chỉ làm
hại cho ta mà thôi. Vì lý do này, vị Thầy không nên giảng nói về tánh (của
tâm) trước khi kinh nghiệm của đệ tử chín mùi.
Nếu chưa cắt đứt được giòng tư
tưởng, ý niệm, ta sẽ không thấy được tánh (của tâm an tịnh). Nếu không
thấy được, làm sao ta có thể biết nó ra sao? Chưa nhận ra được nó thì vẫn
chưa thực sự bước vào con đường giác ngộ.
Trong lúc Thiền Quán, nếu có
những kinh nghiệm chán nản xảy đến thì phải kiên nhẫn gia tăng sức quán
chiếu.
Nói một cách khác, khi có cảm
giác đau đớn, khó chịu, không nên than khóc, phải nhìn thẳng vào cái tâm
đang cảm thọ sự đau đớn. Nhờ sự gia tăng chú ý này, các vọng niệm khác sẽ
dứt bặt.
Giảng dạy những cách thức tu
tập như trên gọi là truyền khẩu. Khi ta hiểu được toàn bộ cách thức tu tập
thì cuộc truyền khẩu được xem như chấm dứt. Sau đó ta có thể tự tu tập dễ
dàng, khai triển kinh nghiệm quán chiếu. Tuy nhiên nếu muốn biết chắc đã
trực ngộ đuợc tánh cùng xóa tan mọi nghi ngờ, ta vẫn cần sự ấn chứng và
chỉ đạo của vị Thầy.
Một cách tổng quát, tu thiền
bao gồm hai điều thiết yếu: Thiền Ðịnh và Thiền Quán. Thiền Ðịnh là đưa
tâm trở về trụ trong trạng thái bổn nhiên, êm dịu trong sáng, các ý niệm
đều tiêu tan (ngay khi chúng vừa phát khởi). Tâm không còn phóng chạy bừa
bãi theo ý niệm vật chất thế gian nữa, nó hoàn toàn an lạc, tất cả vọng
tưởng dường như chìm vào giấc ngủ vùi. Lúc này ta hoàn toàn tự chủ, có thể
tùy ý kéo dài hay thâu ngắn trạng thái này và nhiều khi có cảm giác như
không còn hô hấp nữa. Ðây chính là dấu hiệu thành tựu Thiền
Ðịnh.
Những giây phút trực nghiệm về
an lạc, sáng suốt và vô niệm này rất quan trọng. Tuy không hẳn là thực
tánh (vì chưa phối hợp với Thiền Quán) nhưng thiếu chúng, ta không có thể
tiếp tục được. Tinh tấn tu tập, khai triển an trụ trong Thiền Ðịnh, không
để rơi vào hôn trầm, tán loạn, dần dần ta sẽ nhận ra được thế nào là tánh
của tâm. Nó vừa rỗng lặng, vừa trong sáng, vượt khỏi mọi khái niệm ý thức.
Nó hiển lộ tự nhiên, như như, nguồn gốc của tất cả pháp lành. Nếu chưa
nhận được nó tức còn vô minh và trôi lăn trong sanh tử. Nhận được nó thì
gọi là trí huệ, Căn Bản trí, Niết Bàn, tánh giác, bổn tánh, Thanh Quang
[1], v.v...
Nhận ra thực tánh của tâm, đó
là Niết bàn, nếu không thì trôi lăn trong sanh tử. Thực ra tánh của sanh
tử và Niết bàn là một, nhưng khác nhau ở chỗ là ta đã giác ngộ hay chưa mà
thôi.
Khi được vị Thầy khai thị thấy
được tánh (của Tâm) rồi, ta sẽ có cảm tưởng như gặp lại một người bạn thân
đã quen biết từ lâu. Sự kiện này còn được gọi là nhận ra (lại) tánh (của
Tâm). Tánh của Tâm không phải là cái gì đạt được do sự thông minh của
người đệ tử hay tài diễn thuyết khéo léo của vị Thầy.
Tâm có mặt từ đời vô thỉ, nhưng
vì bất giác vọng niệm dấy khởi che lấp bổn tánh làm ta quên hẳn nó. Ngày
nay nhờ chặt đứt giòng ý niệm trở về nhìn thẳng vào Tâm, nên ta nhận lại
được bổn tánh. Sau khi nhận ra rồi, phải tiếp tục tinh tấn tu tập không
xao lãng. Quán chiếu thâm sâu tâm an tịnh và nhận ra bổn tánh được xem là
sự khai thị đầu tiên (của vị Thầy) . Hãy ghi khắc vào tâm và tinh tấn
thiền tập không ngơi nghỉ. Ðây là điểm thứ năm (của Thiền Quán): nhận ra
tánh (của tâm an tịnh).
Chú thích:
[1] Claire lumière. Trong Mật
giáo Tây Tạng thường dùng những danh từ như Thanh Quang (Claire lumière
mère), Tử Quang (Claire lumière fille) để nói về kiến tánh.
Nhận ra
tánh của tâm dao động
Ðiểm thứ hai của Thiền Quán
(tức quán chiếu tâm dao động) có công năng chặt đứt gốc rễ của vô minh. Ở
những chương trước đã trình bày hai cách thức: 1) quán chiếu tâm vô niệm
hay an tịnh, và 2) quán chiếu tâm dao động hay suy nghĩ.
Về cách thứ nhất, sau khi quán
chiếu tâm an tịnh, trong sáng vô niệm, không hôn trầm tán loạn, ta thấu
triệt được tánh của nó không sanh, không diệt, nhưng ta không hề khởi nghĩ
(khái niệm) rằng: "tánh này không sanh, không diệt, không hình, không
sắc". Thực hiện như vậy gọi là quán chiếu thâm sâu tâm vô
niệm.
Dính mắc vào trạng thái vô niệm
của tâm chính là mắc vào lỗi khái niệm hóa tánh không sinh, vì đã biến nó
thành một "vật" (pháp).
Về cách thứ hai, tương tựa như
trên, nếu bảo rằng tánh của tất cả ý niệm vọng tưởng là Không, không sinh,
không diệt, đó là đã ghép tánh Không vào văn tự và rơi vào chấp đoạn, cho
rằng các pháp không có (hiện hữu). Thực tế đó là một sự linh động hằng
chuyển, không lưu lại dấu vết; tánh của nó chưa hề sanh, cũng không bao
giờ diệt, vượt khỏi mọi định nghiã, khái niệm. Hiểu rõ điều này, đó là đã
có được một chút chánh kiến. Sau đó phải tiếp tục quán chiếu để nhận ra
điều trên một cách trực tiếp chứ không phải khởi niệm suy nghĩ: "Tánh của
nó bất sinh, bất diệt, v.v...". Không nên phân biệt thủ xả giữa hai tánh
rỗng lặng và linh động của những ý niệm, phải trực ngộ rằng chúng sinh
khởi và tiêu diệt cùng một lúc (giống như vẽ hình trên nước). Thêm nữa, ta
phải thấy rõ rằng không có một sự khác biệt nào giữa tánh của tâm và vật,
giữa tâm an tịnh và tâm dao động, giữa tâm quá khứ và hiện tại, v.v... Tất
cả đồng một tánh sáng suốt, rỗng lặng (rỗng sáng).
Khi ta làm khởi lên một ý niệm
(để quán chiếu) hoặc khi nó tan biến, đó không phải là nó được khởi lên
rồi lại trở về tánh rỗng sáng mà ngay khi đang khởi, chính nó vẫn là tánh
rỗng sáng. Hiểu và đích thân trực nghiệm điều này, gọi là nhận ra tánh
(của những ý niệm).
Tâm an tịnh, tâm dao động và ý
niệm, cả ba đều sáng suốt, rỗng lặng, linh động như nhau. Nếu bảo là khác
biệt thì đó là suy luận của người chưa tập quán chiếu.
Trước kia, chưa nhận ra được
thực tánh của ý niệm nên ta rất khó chịu muốn xua đuổi chúng trong lúc
thiền tập. Ðó là vô minh. Nhưng nay đã nhận được tánh rồi, ta có thể quán
chiếu thẳng vào ý niệm (lấy đó làm đối tượng).
Trước kia, những ý niệm vẩn đục
che lấp mất tự tánh. Nhưng từ nay chúng trở thành sáng suốt: ta có thể
nhìn rõ ràng xuyên qua chúng.
Quán chiếu về ý niệm sinh khởi
được xem như cao hơn một bậc đối với sự quán chiếu về trạng thái vô niệm.
Bất cứ ý niệm nào khởi lên ta cũng ghi nhận khách quan. Khi không còn vọng
niệm, hãy an trụ trong vô niệm không cần cố ý làm nó dấy khởi. Nếu bất
chợt nó dấy khởi, ta cũng an trụ trong trạng thái dao động, không cần xua
đuổi hay dập tắt nó. Tất cả ý niệm không là gì khác hơn là tâm. Cái tâm
vắng lặng tự nhiên này chính là Pháp thân tự tánh sáng suốt rỗng lặng,
trong đó không có gì cần phải khởi hay diệt. Ðạt đến cái thấy này, cái
thấy thâm sâu về thực tánh của ý niệm, đó là nhận ra được Pháp
thân.
Ta cần chứng nghiệm rằng tất cả
ý niệm đều là tánh rỗng sáng, vừa khởi vừa diệt cùng lúc, giống
như in dấu tay trên mặt nước. Từ lúc khởi đến khi diệt không có một sát na
tồn tại nào, cũng không có một khoảng cách nào giữa hai ý niệm khác nhau,
đây chính là cái gọi là "vắng lặng tự nhiên", còn có nghĩa là "tự tan biến
lấy".
Tóm lại, ta phải nhận diện tất
cả những ý niệm phát sanh, tập trung tâm ý nhìn thẳng vào tánh của chúng
và cứ thế tăng trưởng sức quán chiếu. Ðây là điều khai thị thực sự thứ hai
(của vị Thầy) về bổn tánh (của tâm). Trực ngộ (nhận ra) được bổn tánh như
vậy chưa phải là xong, ta phải tiếp tục tu tập tinh tấn củng cố sự trực
ngộ này. Ðây là điểm thứ sáu.
Nhận ra tánh của tâm chiếu soi
cảnh vật và tâm liên hệ với thân
Ðiều khai thị thứ ba nhằm giúp
ta nhận ra tánh của tâm năng chiếu, hay đúng hơn là tánh bất nhị (không
thể tách rời) giữa tâm và cảnh vật. Ở những phần trước ta đã quán chiếu
thấy rằng cảnh vật (5 trần) không hẳn là những gì thực sự hiện hữu bên
ngoài và tâm năng chiếu không phải là một cũng không phải khác. Tuy nhiên
ta không được khởi tâm suy nghĩ (khái niệm) rằng chúng không phải một cũng
không phải khác.
Cũng vậy thân và tâm không phải
một cũng không phải hai. Không thể tách rời được tánh sáng suốt ra khỏi
tánh rỗng lặng, tánh năng khởi (diệu hữu) ra khỏi tánh rỗng lặng (chơn
không).
Tương tựa như bóng trăng dưới
nước. Nếu bảo là một, vậy khi lấy tay che nước, sao bóng trăng
không còn. Nếu bảo là hai thì phải có thể tách rời bóng trăng ra khỏi mặt
nước chứ?
Ngoài ra tất cả cảm giác như
nóng, lạnh, v.v... cũng đều là hình ảnh (ảo tưởng); vì chưa giác ngộ được
thể tánh chơn không, diệu hữu của chúng nên ta dính mắc vào, cho rằng
chúng có thực bên ngoài.
Trong giấc mơ ta thấy mình có
thân, chung quanh có đầy cảnh vật, tất cả đều hiện rõ ràng như có thật.
Nhưng khi thức giấc, ta liền hiểu rõ chúng chỉ là những hình ảnh phát xuất
từ tâm và cùng lúc trở lại làm đối tượng thấy của tâm. Không có một hiện
hữu hay thực chất nào mà ta có thể chỉ định rằng đây là "thân tôi", v.v...
Cũng vậy, tất cả cảnh vật cùng kinh nghiệm sống chết của cuộc đời, mà ta
(do lầm tưởng) cho là hiện hữu cụ thể, đều trống rỗng (không thực sự hiện
hữu như vậy).
Tất cả hình ảnh, cảnh vật đều
phát xuất từ tâm. Nếu nghĩ ma quỷ có thật, chắc chắn ta sẽ thấy nó. Nếu
không tin là có thì sẽ không bao giờ thấy. Một ngày nọ, Milarépa [1] đang
thiền định trong một hang động, bỗng nhiên để ý thấy có lỗ nhỏ trên vách
đá, liền tự hỏi không biết trong đó có hồn ma nào ở không? Khi ý nghĩ nầy
vừa khởi xong, tức thì một con quỷ cái (ngáo ộp) hiện ra hỏi: "Tại sao
ngài lại gọi tôi? Nếu muốn tôi đi thì hãy lắng tâm ngài xuống". Tương tựa
như thế, vì ta lầm lẫn nghĩ rằng cảnh vật đều hiện hữu như những vật có
thật, cụ thể "ở bên ngoài", nên ta "tin" rằng chúng thực sự hiện hữu như
vậy. Tất cả hình ảnh, cảnh vật đều là bóng dáng ảnh chiếu của tâm, trống
rỗng không có tự hữu, không phải là những vật hữu chất có thật "ở bên
ngoài". Có nhiều vị Thầy lớn (grands Lamas) khi đến Bồ Ðề đạo tràng
(Bodhgaya)_ bỗng nhiên thấy nơi đây chẳng khác gì thiên đàng và dân chúng
xung quanh như chư thiên. Nhưng cũng cùng nơi đây, một người ăn xin đói
khát lại thấy như đang ở địa ngục. Mỗi người cảm nghiệm một thực tại khác
nhau. Thí dụ khác, với một ly nước: chúng sanh ở địa ngục thấy đó là nước
đồng sôi, quỷ đói thấy là máu mủ, cá thấy là nhà ở, người thấy là nước,
chư thiên thấy là rượu tiên. Tất cả sự thấy ở trên chỉ là hình ảnh phát
xuất từ tâm và phản chiếu trở lại tâm, thế nhưng dưới mắt ta, chúng lại
ảnh hiện rõ ràng như thực có "ở bên ngoài" vậy.
Bất cứ hình ảnh nào xuất hiện
trước mắt (ngón tay ta chẳng hạn), hãy tập trung tâm ý quan sát nó vài
phút. Sau đó nới lỏng sự chú ý. Ban đầu những nét nhỏ còn hiện rõ nhưng
sau một lát hình ảnh trước mắt mờ dần và ta cảm thấy nhàm chán không muốn
tiếp tục nhìn lâu hơn nữa, hoặc hai mắt mệt mỏi bắt đầu chảy nước mắt.
Nhưng nếu tập trung tâm ý nhìn trở lại thì hình ảnh đó lại hiện rõ ràng.
Ðến đây cần nhận thức rằng tâm (ta) và hình ảnh (đi, đến từ tâm) không
phải hai vật có thể tách rời. Những hình ảnh (đối tượng của thức) sở kiến
và thức năng kiến, cả hai đều là sự phát hiện của ảo giác. Một khi phát
hiện thì không thể nào tách rời được; hình ảnh xuất hiện vì chúng là ảo
giác của tâm, và như vậy tâm cũng chính là hình ảnh. Ngoài điều này ra,
không có một cảnh vật hay hình ảnh nào có thể được xem là hiện hữu tự
tánh, độc lập ngoài tâm cả.
Trước kia vì vô minh chấp trước
cho rằng các pháp thực có nên không thể thấy được đi?u này. Ngày nay nhờ
chặt đứt giòng tâm thức hay khái niệm chấp trước (biến kế chấp) nên nhận
ra được tánh của tâm năng chiếu, năng khởi, không còn bám víu vào cảnh vật
vì thấy chúng trống rỗng và trong sáng chẳng khác chi ánh sáng của Pháp
thân.
Hãy an trụ trong thực tánh của
hiện tại. Không cần tìm cầu an lạc, tánh Không hay Bát Nhã. Không dính mắc
quá khứ, không tưởng đến tương lai cũng không suy nghĩ hiện tại. Không
thiền quán bằng khái niệm ý thức. Hãy buông thả tất cả, an trụ tâm trong
trạng thái tự nhiên, ngay bây giờ và ở đây. An trụ trong tánh bất nhị của
chân không và diệu hữu, của an lạc và rỗng lặng, của không và thức. Khi
hiểu được tánh bất nhị giữa không và có - cảnh vật tuy ảnh hiện rõ ràng
nhưng không thể nắm bắt - đó là đạt được cái thấy thâm sâu về tánh của tâm
năng chiếu. Tiếp tục tu tập trưởng dưỡng trạng thái này, chắc chắn sẽ gặt
hái được kết quả bất khả tư nghì.
Nhận ra tánh của tâm năng chiếu
(cảnh vật) là sự khai thị thứ ba (của vị Thầy) và cũng là điểm thứ bảy của
Thiền Quán.
Chú thích:
[1] Một đại hành giả Du Già
Tây Tạng, cũng là nhị Tổ của phái áo vải (Kagyupa) nổi tiếng là đã đạt
được giác ngộ (hoàn toàn) ngay trong một đời, nhờ sự tu hành khổ hạnh,
tinh tấn trên vùng tuyết lạnh của Hy Mã Lạp Sơn.
Nhận ra cùng lúc tánh của tâm
an tịnh và tâm n
ăng khởi
Khi quán chiếu về tâm an tịnh
và tâm dao động (ở những chương trước), ta đã hiểu được sự xuất hiện, cấu
tạo của những ý niệm và biết tâm an tịnh với tâm dao động không phải là
hai tâm (khác biệt). Khi tâm an tịnh thì nó không dao động, và khi dao
động thì nó không an tịnh. Tác nhân và tánh của hai trạng thái trên chính
là một tâm rỗng lặng, sáng suốt.
Không phải sự phát hiện của một
ý niệm cho ra tánh rỗng sáng, cũng không phải, khi ý niệm này diệt, nó trở
về tánh rỗng sáng. Ngay khi đang khởi nó vẫn là tánh rỗng sáng. Thấy được
điều này tức là hiểu được tánh thường trụ của tâm.
Khi biết tất cả hình ảnh, cảnh
vật không gì khác hơn là những dấy động của tâm, như sóng trên nước, không
hiện hữu thực sự, gọi là nhận ra cảnh vật chính là tâm (không
khác).
Khi quán chiếu thấy rõ tánh của
tâm không đến, không đi, không tồn tại cũng không thể nắm bắt (như vật
trong mơ) đây gọi là nhận ra tánh Không (thực) rỗng lặng của
tâm.
Tâm mà ta cần nhận ra, đó là
"tánh biết", tác nhân ý niệm của các pháp hiện hữu, năng giác và năng
khởi, hợp thể của rỗng lặng và sáng suốt, còn gọi là Ðại Lạc (grande
béatitude) hay Ðại Thủ Ấn (Mahamudra) con ấn lớn của Không tánh. Khi nhận
ra được nó thì gọi là trí huệ của Ðại Thủ Ấn. Hãy an trụ trong tánh biết
rỗng sáng này, không xao lãng, mong cầu hay lo lắng. Chính trong giờ phút
này, bây giờ và ở đây, ta đang thưởng thức ngắm nhìn Ðại Thủ
Ấn.
Lúc này Thiền Quán được phối
hợp (song tu) với Thiền Ðịnh, những kinh nghiệm giác ngộ sẽ xảy đến một
cách tự nhiên và đây mới thực sự bắt đầu bước chân trên con đường giải
thoát.
Hiện thể của tâm là rỗng lặng,
đặc tính của tâm là sáng suốt, cả hai hợp lại chính là bổn tánh của tâm.
Có rất nhiều danh từ được dùng để gọi tánh này như: tinh yếu của Ðại bổn
thức, thường trụ tánh của các pháp, bạch tịnh thức, pháp tánh, Niết Bàn,
Phật tánh, Bát Nhã, nhất thiết trí, Không tánh bất diệt, v.v...
Vì các pháp không thể có ngoài
tâm nên gọi là Duy Tâm (Cittamatra). Vì không thuộc nhị biên nên gọi là
Trung Quán (Madhyamika). Vì nó rất khó hiểu, khó lãnh hội nên gọi là Mật
giáo (Tantra). Vì nó phá tan mọi vọng tưởng nên gọi là Kim Cang thừa
(Vajrayana). Vì nó nhận ra Phật tánh nên gọi là Pháp thân
(Dharmakaya).
Hãy dùng chiếc bè kết bằng tin
tưởng và thành kính (đối với vị Thầy) để vượt qua biển sanh tử, luôn luôn
cầu nguyện ơn trên gia hộ và không bao giờ nghĩ rằng những gì ta đạt được
là đầy đủ rồi tự mãn. Hãy tin chắc rằng những ân huệ hay phước lành đến
với ta đều bắt nguồn từ vị Thầy.
Khi tánh sáng suốt thanh tịnh
được nhận ra, không còn bị ngăn che, hiển lộ một cách tự nhiên, đó là đạt
được Ðại Thủ Ấn căn (căn bản). Tiếp tục quán chiếu thực tánh của tâm, gọi
là Ðại Thủ Ấn đạo (con đường). Chứng đạt (trở về) hoàn toàn bổn tánh một
cách chắc chắn, gọi là Ðại Thủ Ấn quả. Với tâm an vui tự tại, chúng ta hãy
y theo mà tu tập.
Từ nay sự có mặt của ta trở nên
đầy ý nghĩa. Ta đã thực sự đặt chân trên con đường giải thoát, xa lìa vĩnh
viễn sinh tử. Do đó hãy vui mừng, tiếp tục tinh tấn tu tập.
Sau khi quán chiếu tâm an tịnh
và tâm dao động, sau khi được khai thị thấy được thực tánh, nhận ra hình
ảnh, cảnh vật chính là tâm (không khác), chợt khởi chợt biến, không tánh
(rỗng lặng). Ðây gọi là Ðại Thủ Ấn, khai lộ dẫn đến Pháp thân. Hãy tinh
tấn tu tập cho đến ngày thành tựu đạo quả, không nên ngừng bước nửa đường
để nó trở thành một sự hiểu biết trí thức (vô bổ). Ðây là điểm thứ tám của
Thiền Quán.
Vài lời về cách trình
bày
Phần chính của tập sách này,
nói về Thiền Ðịnh và Thiền Quán, đến đây coi như chấm dứt. Ban đầu, tập
trung tâm ý vào sự quán tìm bổn tánh, sau đó dần dần sẽ nhận ra nó, tùy
theo sự phát hiện thứ lớp của kinh nghiệm thiền tập. Ðây là những điều
kiện, nguyên nhân tương quan tương duyên không thể tách rời. Có nhiều tập
sách khác, trong sự khai thị được trình bày theo sự hiểu biết của mỗi
người. Riêng về tập sách này, tôi đã trình bày sự khai thị theo bốn cách
quán chiếu, rút tỉa từ những kinh nghiệm tu tập thực chất. Mỗi hành giả
cần phải thấu hiểu và áp dụng tùy theo sự tiến bộ cũng như chứng đạt của
mình. Nếu được khai thị ngay từ đầu về tánh của tâm (trước khi chín muồi),
ta sẽ sinh chán nản. Nếu chán nản thì kinh nghiệm và chánh kiến rất khó
phát triển, in sâu vào tâm khảm. Ðể tránh trường hợp (nguy hiểm) này, tôi
đã trình bày theo thứ lớp.