Kết Luận
Lợi ích của Ðại Thủ Ấn và Thập
Ðịa Bồ Tát
Trước tiên nói về lợi ích của
các pháp dự bị tu tập, nền tảng của con đường giác ngộ và sự tái sanh
trong nhàn cảnh.
Quán chiếu về sự may mắn có
được thân người (đầy đủ lục căn) cũng như về cái chết và vô thường sẽ kéo
ta ra khỏi những cám dỗ của cuộc đời. Suy nghĩ về nghiệp báo và luật nhân
quả giúp ta thấy rõ đâu là thiện ác và như vậy ta sẽ cố gắng giữ giới
thanh tịnh. Quán sát về đau khổ luân hồi giúp ta nhàm chán ba cõi. Có nhàm
chán thì chí nguyện giải thoát mới kiên cố. Thiền quán về tình thương, từ
bi khiến Bồ Ðề Tâm tăng trưởng, cầu thành Phật độ khắp chúng
sanh.
Tu tập Kim Cang quán, năng trì
chú 100 chủng tự, sẽ gặt hái được nhiều điềm báo ứng bên ngoài hoặc trong
chiêm bao, chứng nhận rằng nghiệp chướng đã tạo trong quá khứ được tiêu
trừ. Cúng dường Mạn Ðà La, thân thể trở nên nhẹ nhàng, tâm thần sáng suốt,
muốn ít, biết đủ, tích tụ công đức không thể tính đếm. Thiền quán Bổn Sư
Du Già làm tăng trưởng lòng tin kính vị Thầy (Lama), nhờ đó sẽ cảm nhận
được sự gia hộ giúp ta khai triển kinh nghiệm chánh kiến và Thiền Ðịnh. Sự
tu tập có đứng đắn và tiến bộ hay không đều tùy thuộc vào lòng tin kính
đối với vị Thầy.
Về phần tu tập chính yếu, lợi
ích của Thiền Ðịnh giúp ta khai triển, chứng đạt ba đặc tính: an lạc, sáng
suốt và vô niệm. Lòng ham muốn về vật chất (quần áo, thức ăn, v.v...) giảm
dần. Có thể đắc nhiều loại thần thông và ngũ nhãn.
Những ý niệm vi tế, tán loạn bị mờ dần dưới ánh sáng của
định lực, tựa như những ngôi sao dưới ánh sáng mặt trời.
Ngũ nhãn gồm: 1) Nhục nhãn,
thấy được cảnh vật ở xa trước mắt, 2) Thiên nhãn, thấy được sự tái sinh
trong quá khứ, vị lai, 3) Huệ nhãn, thấy rõ, trực nhận được Không tánh, 4)
Pháp nhãn, thấy được căn tánh của mỗi chúng sanh cùng giáo pháp thích ứng
để độ họ, 5) Phật nhãn, thấy rõ tất cả các pháp, tức nhất thiết chủng
trí.
Về Thiền Quán, kết quả lợi ích
thâu thập được tùy thuộc vào căn tánh của hành giả. Với hàng thượng căn
thì Thiền Quán giúp họ trực chỉ, trực đáo Bồ Ðề. Hàng trung căn thì có lúc
đi thẳng một mạch có lúc lại đi theo thứ tự. Hàng hạ căn thì tiến bước từ
từ theo thứ tự sơ phát tâm cho đến Thập Ðịa Bồ Tát, tùy theo cách phát
triển 12 (4 lần 3) phép quán Du Già (Yoga).
Năm con đường (ngũ đạo) [1] và
mười cảnh giới (Thập Ðịa) của Bồ Tát dẫn đến Chánh Giác (Phật quả) có thể
được chia theo nhiều cách, hoặc chứng đạt với nhiều phương thức khác nhau.
Các phương thức tổng quát được tìm thấy ở các trường phái Phật giáo cổ Ấn
và Tạng mật. Theo ngài Gampopa trong "Ngọc báu trang nghiêm giải thoát"
thì hệ thống trên được chia làm 13 giai đoạn: giai đoạn (sơ) phát tâm,
giai đoạn thành khẩn mong cầu, 10 giai đoạn Thập Ðịa Bồ Tát và Phật Ðịa.
Trong trường phái "Ðại Thành Tựu" (Maha-Ati, Dzogtchen) lại chia theo cách
khác, nhưng ở đây theo Ðại Thủ Ấn, ngũ đạo và Thập Ðịa được chia theo 12
pháp Du Già. Dù được phân chia khác nhau nhưng nền tảng căn bản và kết quả
chứng đắc vẫn là một.
(Thông thường, khi đắc định,
tức đạt được trạng thái an tịnh tâm), ta có thể tùy ý trụ trong trạng thái
an lạc, sáng suốt, vô niệm bất cứ lúc nào. Tuy vậy, có nhiều lúc 3 trạng
thái trên không xảy đến trong khi Thiền Ðịnh và ngược lại, khi không cố ý
Thiền Ðịnh thì nó lại xảy đến. Ta chưa hoàn toàn làm chủ được sự "tập
trung vào một điểm". Ðây là trình độ sơ cấp của Thiền Ðịnh. Nếu ta đạt
được tâm an tịnh, không bị xao lãng bởi ngoại duyên và bất cứ lúc nào
Thiền Ðịnh, 3 trạng thái trên cũng đều hiện khởi. Làm chủ được sự "tập
trung vào một điểm", đây là trình độ trung cấp của Thiền Ðịnh.
An trú tập trung không gián
đoạn, không xao lãng, ngay cả trong trường hợp khẩn cấp, ý niệm vẫn bình
lặng, trong tất cả các thời, hành vi, cử động và ngay trong giấc ngủ, tâm
vẫn an trú không rời trạng thái an lạc, sáng suốt, vô niệm, đây là trình
độ thượng cấp của Thiền Ðịnh.
Ðến đây ta có thể nghĩ rằng
mình đã đạt được "Không-Thiền" [2] hoặc chứng ngộ. Nhưng đây chỉ có nghĩa
là ta đã chứng đạt Thiền Ðịnh mà thôi, chưa phải thực sự thấu hiểu tánh
Không (hay kiến tánh, nói theo danh từ Thiền tông). Những trạng thái Thiền
Ðịnh ở trên được xem như thuộc hai con đường Tích Tụ và Chuẩn Bị. Vì chưa
thấu hiểu hoàn toàn Tánh của tâm nên trạng thái (trống rỗng) mà ta đạt
được chỉ là một đặc tính của Thiền Ðịnh. Cần phải tiếp tục tu tập lâu dài,
xa lìa mọi bám víu thủ xả, dần dần những trạng thái trên sẽ trở thành
thanh tịnh. Tất cả khái niệm dư hưởng về an lạc, sáng suốt, và vô niệm đều
tan vỡ, tiêu hoại (vì trạng thái này hiện khởi và tan biến cùng lúc trong
từng sát na), nhờ đó ta thấy được thực tại (tối hậu) của tánh Không. Nói
theo cách khác, khi sự bám víu vào 3 trạng thái trên (cho rằng chúng có
thật) được hóa giải bằng vô-khái-niệm, đưa tâm vào trạng thái
Không-an-lạc, Không-sáng-suốt, Không-vô-niệm, thì lúc đó thực tánh của tâm
được hiển lộ một cách thanh tịnh, tựa như trái cây đã được lột vỏ, kho
tàng được mở nắp.
Ðang đói thấy được trái cây đã
là mừng, nhưng chưa ăn được. Muốn ăn phải lột vỏ. Vỏ ở đây chỉ sự bám víu
vào 3 trạng thái an lạc cho rằng chúng thực có. Khi vỏ được lột, thì thực
chất bên trong trái cây mới hoàn toàn hiển lộ, tức thực tánh rỗng lặng
(vide) của tâm, thường được tạm khái niệm hóa bằng sự an lạc, sáng suốt và
vô niệm, tuy rỗng chất nhưng vẫn khởi diệt từng sát na.
Ðến đây ta đã bước vào con
đường thứ ba (kiến tánh), còn được gọi là trung đạo bất nhị. Tuy nhiên nếu
chưa hoàn toàn dứt bỏ thói quen hay khái niệm (đóng khung) tánh Không,
hoặc chỉ thấy vài lần bổn tánh thì ta mới ở trình độ sơ cấp. Sau khi thanh
lọc, tâm trở nên trong suốt, không còn quán chiếu một cách khái niệm nữa,
đây là trình độ trung cấp. Khi trạng thái này trở nên vững chắc, không còn
khái niệm về tâm và vật thì ta đạt được "Không kiến" thấy tất cả các pháp
đều rỗng lặng. Chặt đứt mọi phân biệt cân nhắc về Không tánh của các pháp
bên ngoài lẫn bên trong, đây là trình độ thượng cấp. Trong thời gian này,
mọi cảnh vật đều ảnh hiện như ảo ảnh, dương diệm (mirage). Trên con đường
(thứ 3) kiến tánh này, ta chứng ngộ được thực tánh của Bồ Ðề Tâm và gột
sạch 82 kiến hoặc; không còn tái sinh trong 3 cõi, trừ khi bởi nguyện lực
(muốn trở lại hóa độ chúng sanh). Tới đây là hoàn thành con đường kiến
tánh hay Sơ Ðịa của Bồ Tát, "Hoan Hỷ Ðịa". Tiếp tục tu tập, ta tiến đến
giai đoạn "Ðộc vị" (một vị duy nhất).
Ở bước đầu giai đoạn này, ta
vẫn còn gặp vài khó khăn để trụ trong "bây giờ và ở đây". Ðến khi những
khó khăn này được vượt qua thì dù đã hay chưa thoát khỏi sự chi phối của ý
niệm hiện khởi [3], dù các pháp có hay không có, chỉ cần nhớ và nhận lại
tánh của (trạng thái) "bây giờ và ở đây". Thấu hiểu được thực tánh các
pháp, ta sẽ thấy tất cả đều cùng một vị (rỗng lặng).
Trên đây là trình độ sơ cấp của
"Ðộc vị", kinh nghiệm độc vị giữa cảnh vật và Không tánh chưa hoàn toàn,
vẫn còn một chút dính mắc vọng tưởng.
Vọng tưởng là: cho "bây giờ và
ở đây" là một pháp.
Khi vọng tưởng này được thanh
lọc, tánh của pháp đều tan hoà thành một vị duy nhất, luân hồi và giải
thoát, sinh tử và Niết Bàn cũng vậy. Ðây là trình độ trung cấp của "Ðộc
vị". Tiếp theo, cái vị duy nhất này luôn luôn ảnh hiện xuyên qua mọi vật,
đây là trình độ thượng cấp của "Ðộc vị".
Ðến đây ta đã chứng ngộ hoàn
toàn sự hiện khởi không thực của các pháp. Con đường này bắt đầu từ Nhị
Ðịa cho đến Thất Ðịa (theo vài luận sư thì nó bao gồm cả Bát Ðịa), thuộc
con đường Thiền Quán.
Trong hệ thống của Ðại Thủ Ấn,
có nhiều cách phân chia 12 phép Du Già. Theo tài liệu, bút tích của
Kontrul Rinpoché đệ III, cách định nghĩa có vẻ đơn giản hơn:
Trong giai đoạn tập trung tâm ý
của Thiền Ðịnh, ở sơ cấp, 3 trạng thái an lạc xuất hiện lần lượt, lúc
không lúc có. Ở trung cấp, 3 trạng thái này xuất hiện tự nhiên và ở thượng
cấp thì chúng tan hòa vào Thanh Quang, ngay cả trong giấc ngủ.
Trong giai đoạn sơ cấp của Kiến
Tánh, ta thấy được tâm không sanh, không diệt, không trụ. Ở trung cấp, ta
không còn bám víu vào tánh Không cùng cảnh vật. Ở thượng cấp, ta hoàn toàn
dứt lìa khái niệm phân biệt về các pháp hiện hữu.
Trong giai đoạn Ðộc vị, ở sơ
cấp những hiện tượng (trước đây được xem như tự hữu) đều tan hòa vào tánh
Không (rỗng lặng). Ở trung cấp, tâm và cảnh tựa như nước hòa với nước. Ở
thượng cấp, ta thoáng thấy được sự hiện khởi của ngũ trí [4] (xuất phát từ
Ðộc vị).
Những phân chia, định nghĩa ở
trên không nên được xem là chống trái, vì nó được thiết lập từ những kinh
nghiệm thiền tập cá nhân của chư Tổ.
Trước đây ngoài thời gian thiền
tập, trong tâm vẫn còn lưu lại vài vết dính mắc vào tánh Không. Nhưng nay,
trạng thái trong lúc thiền tập và ngoài giờ thiền tập vẫn như như không
khác, tất cả đều được bao trùm trong một khối rỗng lặng, thanh tịnh, trong
đó không còn gì để chứng đạt cũng không còn ai chứng đắc, không còn một
chút khác biệt giữa xao lãng hay không xao lãng. Hoàn toàn thoát ly khỏi
mọi đối đãi nhị nguyên giữa năng quán và sở quán, đây là giai đoạn sơ cấp
của Không Thiền, hay Bát Ðịa Bồ Tát.
Ở mức này, có thể lâu lâu trong
giấc ngủ, vài dấu vết vi tế dính mắc (năng, sở) vẫn còn hiện khởi. Khi
những dấu vết trên được tẩy sạch và các pháp hiển hiện như như trong trạng
thái đại định của Căn Bản Trí [5], đó là giai đoạn trung cấp của Không
Thiền, hay Cửu Ðịa của Thập Ðịa Bồ Tát.
Tiếp theo, khi lưỡi kiếm của
Phân Biệt Trí và Căn Bản Trí vung lên chặt đứt tận gốc những lậu hoặc tột
cùng vi tế (nguyên nhân của vô minh) thì Mẫu Quang, toàn khối thanh tịnh
rỗng lặng và Tử Quang, trí huệ nguyên thủy trong như gương [6], tương hòa
nhập một. Ðây là sự toàn giác của một đức Phật, còn gọi là thượng cấp của
Không Thiền hay Phật quả.
Tánh thanh tịnh tự nhiên của
trạng thái nguyên thủy, kết quả của sự hợp nhất (giữa toàn khối rỗng lặng
và Ðại Viên Cảnh Trí) chính là Pháp thân (Dharmakaya) mà ta đã làm hiển lộ
trên hành trình từ Bát Ðịa đến Phật quả.
Thân của Phật có thể được nhìn
duới 2 khía cạnh: Pháp thân và Sắc thân [7]. Pháp thân là kết quả của sự
toàn thắng phiền não vô minh, tự tánh nó cụ túc. Sắc thân là kết quả của
sự thành tựu tất cả hạnh lành và xuất phát từ Bồ Ðề Tâm (Bodhicitta) để
hóa độ chúng sinh. Pháp thân bất sinh, bất diệt là tánh thường hằng bất
biến, thanh tịnh của tâm và mọi hiện tượng.
Tánh thanh tịnh của những ý
niệm chính là Báo thân (Sambhogakaya) mà ta đã làm hiển lộ.
Có nhiều định nghĩa về Báo
thân, nhưng theo kinh tạng thì Báo thân có 5 đặc tính sau:
Về 1) sắc tướng: luôn luôn đầy
đủ 112 dấu hiệu chính [8] và phụ của một đức Phật; 2) giáo lý: giảng dạy
Ðại Thủ Ấn; 3) đệ tử: gồm chư Ðại Bồ Tát; 4) địa vức: chỉ xuất hiện ở các
cõi Tịnh Ðộ; 5) thời gian: trụ cho đến tận cùng của luân hồi.
Ðại Bồ Tát là những người, nuôi
dưỡng và thúc đẩy bởi Bồ Ðề Tâm, có được sự chứng ngộ thanh tịnh, không
khái niệm về Không tánh. Do đó cõi nước, địa phương của các ngài trở thành
tịnh độ, cảnh giới của chư Phật. Ngoài chư Ðại Bồ Tát, không có chúng sinh
nào khác có thể trực nhận được tánh thanh tịnh của ý niệm.
Tánh thanh tịnh của cảnh vật
chính là Hóa thân (Nirmanakaya) mà ta đã làm hiển lộ.
Nếu mặt đất toàn bằng lưu ly mà
không được lau chùi, bóng của vua Trời Ðế Thích cũng không ảnh hiện được.
Tương tựa như vậy, nếu tâm của chúng sanh không trong sạch, dù đức Phật có
hiện ra trước mặt, họ cũng không nhìn thấy. Ðối với chúng sanh căn tánh
thông thường, Hóa thân Phật xuất hiện như một hiện tượng bị chi phối bởi
luật nhân duyên và có thể sắp xếp thành 3 hạng. Hóa thân thượng, như Thích
Ca Mâu Ni Phật, đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thực hiện 12 việc: xuống
từ cung trời Ðấu Suất (Tushita), sinh trong hoàng tộc, tinh thông võ nghệ,
xuất gia, tu khổ hạnh, giác ngộ dưới cây Bồ Ðề, chuyển pháp luân, v.v...
Nếu không đầy đủ phước đức và tâm thanh tịnh thì ta sẽ chỉ nhìn thấy nơi
Thích Ca Mâu Ni Phật, một người to lớn với đôi tai dài mà thôi. Nếu đầy đủ
tâm thanh tịnh thì vị Thầy (Lama) cũng chẳng khác chi đức Phật. Hóa thân
trung thường xuất hiện dưới hình thức nghệ sĩ, bác sĩ, nhạc sĩ, v.v... Hóa
thân hạ xuất hiện dưới hình thức thú vật như voi, khỉ, chim, v.v... để hóa
độ chúng sanh.
Tất cả hạnh lành phát xuất từ
tam thân Phật để hóa độ chúng sanh, vượt ngoài sức tưởng tượng của phàm
nhân. Chúng sanh vô biên thì sự hóa độ cũng vô cùng như hư không, cho đến
ngày không còn một ai trong luân hồi nữa.
Trên đây là những lợi ích của
các pháp dự bị tu tập và của tất cả tiến trình tu tập cho tới mức Không
Thiền.
Chú thích:
[1] Ngũ đạo: 5 con đường. Mật
giáo thường chia tiến trình tu tập thành 5 giai đoạn: Tích Tụ
(accumulation), Chuẩn Bị (préparation), Kiến Tánh (vision), Thiền Quán
(méditation), Không Thiền (non-méditation).
[2] Non-méditation: dịch là
Không Thiền. Trong tất cả các thời, đi, đứng, nằm, ngồi, hành động tạo
tác, tâm đều an trú trong Thiền Ðịnh, không còn hạn cuộc vào các thời
khóa công phu thiền tọa. Trong Thiền tông gọi là không thiền mà thiền,
thiền mà không thiền
[3] Tuy thấy Tánh nhưng chưa
hoàn toàn thoát khỏi sự chi phối của những ý niệm hiện khởi.
[4] Tây Tạng thường nói đến
Ngũ Trí thay vì Tứ Trí. Theo Shamar Rinpoché trong quyển "Les deux
visages de l’esprit", Ngũ Trí gồm: Ðại Viên Cảnh Trí (sagesse semblable
au miroir), Bình Ðẳng Tánh Trí (sagesse de l’identité), Diệu Quang Sát
Trí (sagesse de la simultanéité), Thành Sở Tác Trí (sagesse tout
accomplissant), và Pháp Giới Trí (sagesse du Dharmadhatu).
[5] Kinh sách Tây Tạng thường
phân chia 2 loại trí huệ: 1) Phân Biệt Trí, connaissance discriminante
(shérab) là trí huệ của Không tánh, thấy rõ đâu là chân đế, tục đế. Còn
gọi là trí Bát Nhã. 2) Căn Bản Trí (yéshé) là trí huệ của bất nhị tánh,
dung thông nhị đế.
[6] Sagesse primordiale
semblable au miroir
[7]Sắc thân bao gồm Báo thân
và Hóa thân.
[8] 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Ðịnh nghĩa cuối
cùng
Tột cùng mà nói, mỗi người
chúng ta, từ đời vô thỉ, đã có một tánh, thường được gọi là bổn tánh (của
tâm), thực tánh của các Pháp hay Ðại Thủ Ấn, và tánh này không khác với
cái tánh đạt được sau khi hoàn toàn giác ngộ.
Ðại Thủ Ấn căn là cái mà tất cả
chúng sanh đều có, nó là nền tảng trên đó hành giả bắt đầu mọi sự tu tập
thiền quán. Sau khi nhận ra thực tánh của tâm, tiếp tục cho đến Thập Ðịa
Bồ Tát, gọi là Ðại Thủ Ấn đạo. Sau cùng, khi hoàn toàn tỉnh thức thoát
khỏi giấc ngủ triền miên của vô minh, tánh thanh tịnh tối hậu của thực tại
được chứng đạt, gọi là Ðại Thủ Ấn quả.
Ðại Thủ Ấn căn, đạo và quả
tương quan tương duyên, không thể hiện hữu riêng biệt, giống như trường
hợp của một em bé, người lớn và ông lão. Ta không thể nào là một ông lão
nếu chưa bao giờ đã là một em bé hay người lớn. Cũng vậy Ðại Thủ Ấn quả tự
nhiên đến, sau khi trải qua Ðại Thủ Ấn căn và đạo.
Thấy được tánh thanh tịnh bất
diệt của thực tại, thoát khỏi mọi khái niệm về vật sở quán và thức năng
quán, gọi là Cái Thấy về Ðại Thủ Ấn. Suy nghĩ quán chiếu về Cái Thấy này
không xao lãng, gọi là Thiền Quán về Ðại Thủ Ấn.
Tu tập cần phải phối hợp đầy đủ
Cái Thấy (chánh kiến) và thiền tập (chánh định). Có thiền tập mà thiếu
chánh kiến, chẳng khác người mù đi trên đồng trống. Có chánh kiến mà không
thiền tập, chẳng khác người bần tiện, sự hiểu biết không đem lại ích lợi
nào cho mình và cho người cả. Nếu đầy đủ cả hai, sẽ giống như chim đủ hai
cánh bay nhanh đến giác ngộ.
Sau đó, hành giả được khuyến
khích khai triển một trong bốn công việc, trong lúc làm không khởi khái
niệm về việc được làm và người đang làm. Ðây là Hoạt Ðộng về Ðại Thủ
Ấn.
Bốn công việc này là: làm hạnh
lành, mật hạnh, làm trong đám đông và đem lại thành công trong mọi
ngành.
Hãy thành tâm tin tưởng, kính
mến các vị Thầy (Lamas). Dứt bỏ và xa lìa những cám dỗ của cuộc đời. Luôn
tập trung tâm ý không để xao lãng. Chặt đứt sợi dây ích kỷ chỉ muốn hưởng
lợi cá nhân. Bất cứ dấu hiệu nào xảy đến trong thiền tập cũng không chán
nản, phải tinh cần tiếp tục.
Hành giả cần nhận định rõ ràng
sự khác biệt giữa kinh nghiệm nhất thời và kinh nghiệm thâm nhập. Nếu còn
thấy đây là một tâm năng chiếu và kia là đối tượng quán chiếu, đó là kinh
nghiệm nhất thời.
Những kinh nghiệm nhất thời và
ba trạng thái an lạc vẫn còn đượm màu nhị nguyên (dualité).
Trực nhận được tánh bất nhị,
trong đó không có người đang thiền và đối tượng thiền quán, đấy gọi là
thâm nhập.
Tuy ba trạng thái (an lạc, sáng
suốt, vô niệm) không phải là tối cao nhưng chúng là nền tảng của Thiền
Quán. Nếu gia tăng, trau giồi chúng một cách không dính mắc, chắc chắn sự
thâm nhập sẽ đến tự nhiên.
Trong bốn loại ấn, Hoạt Ðộng Ấn
thích hợp cho hàng độn căn. Qua ấn này, ta có thể chứng đạt những năng lực
thần thông của Dục giới.
Có nhiều trình độ giải nghĩa về
bốn ấn. Ở đây, Hoạt Ðộng Ấn, Karmamudra, chiếu theo sự tu tập về các: 1)
hoạt động an bình để giải trừ bịnh tật và trù ếm, 2) hoạt động làm gia
tăng tuổi thọ, phẩm hạnh và phước đức, 3) hoạt động nhằm chứng đạt quyền
năng sai khiển đồ vật, 4) hoạt động dữ dằn để giải trừ điều ác, chướng
ngại.
Giới Ấn và Pháp Ấn là con đường
thích hợp cho hàng trung căn. Với hai ấn này, ta có thể chứng đạt những
thành tựu cao nhất của cảnh giới luân hồi, cõi trời Akanistha
(Og-minn).
Giới Ấn, Samayamudra, là sự tôn
trọng các giới luật đã thọ. Pháp Ấn, Dharmamudra, là quán tưởng tự thân
dưới hình tướng của một Thần Linh Quán. Áp dụng hai ấn này, mà chưa thực
hiện được Không tánh có thể dẫn tới đỉnh của tam giới nhưng không đến giác
ngộ.
Ðại Thủ Ấn (Mahamudra), con ấn
lớn của Không tánh, là con đường của hàng lợi căn, dẫn đến sự thành tựu
tối thượng của giác ngộ.
Ðại Thủ Ấn là tánh bất nhị của
cảnh vật và Không tánh, của an lạc và Không tánh, của Thức và Không tánh,
của sáng suốt và rỗng lặng, vượt khỏi mọi đối đãi tâm linh về có và không.
Nó không phải một vật có thể chỉ bày bởi một vị Thầy, không thể hiểu được
bằng trí khôn của người đệ tử, không thể diễn tả được bằng lời. Nó cũng
không phải cái này hay cái kia. Ðó là một sự Ðại An Lạc, chỉ có thể tự
chứng nghiệm chứ không thể định nghĩa. Không có gì mà nó không thấu suốt,
dù đó là cảnh vật, sinh tử hay Niết Bàn... Nó vừa là tâm vừa là ý niệm,
vừa là Pháp thân, và đã có mặt từ đời vô thỉ.
Sự tan hòa, hợp nhất của tâm, ý
niệm và Pháp thân không giống như trộn cát lẫn với xi măng, mà giống như
hòa nước với nước vậy. Tánh của ý niệm (hiện khởi) chính là tánh của tâm:
cả hai cùng là Pháp thân. Những ý niệm, mặc dù không thực và mê hoặc nhưng
ta không cần xả bỏ hay ngăn chặn chúng; khi nhận ra được tánh thì tự chúng
trở thành thanh tịnh.
Tâm, ý niệm và Pháp thân cả ba
cùng có từ đời vô thỉ. Nếu đặt câu hỏi: "vô minh có trước hay giác ngộ có
trước?" chẳng khác chi hỏi: "gà (con) có trước hay trứng có trước?". Không
phải trước tiên có giác ngộ rồi sau đó thành vô minh, cũng không phải vô
minh trước rồi sau mới giác ngộ. Song le, một đức Phật không còn vọng
tưởng nữa, thế nghĩa là sao? Ý niệm (vọng tưởng) thấm nhuần trong Pháp
thân, do đó không thể nói là đức Phật đã trừ bỏ ý niệm. Ðức Phật đã nhận
ra ý niệm chính là Pháp thân nên tất cả hành động tạo tác và hóa hiện của
Phật hoàn toàn vô niệm, tự nhiên và lợi ích cho tất cả chúng
sanh.
Giòng truyền thừa của Ðại Thủ
Ấn bắt nguồn từ đức Phật Vajradhara xuống đến Tilopa, Naropa, Marpa,
Milarépa, Gampopa và sau đó tỏa ra nhiều giòng truyền từ các đệ tử của
Gampopa gồm giòng truyền Ðại Thủ Ấn Shang, Barom, Drikhung Kagyu, Pagmo
Drupa. Từ Pagmo Drupa lại chia ra các giòng Tag-Lung, Tchugna, Maryé,
Shub-séoua, Tropu, Yazang và Drukpa Kagyu. Riêng ở đây, giòng Karma
Kamtsang Kagyu đã được truyền từ Gampopa, rồi Tusum Khyenpa (Karmapa đệ I)
xuống đến Bổn Sư của ta là Keuntchok Yenlag (Shamar Rinpoché đệ V). Nếu tu
tập đứng đắn, chắc chắn sẽ chứng đạt nhiều kinh nghiệm và trí
huệ.
Lời chú của tác
giả
Trong tập sách này, tôi đã cố
gắng giảng giải những cách thức nhận ra tánh của tâm và nhấn mạnh về phần
tu tập nên không trích dẫn nhiều từ Kinh tạng. Dù bản thân chưa có được
kinh nghiệm thâm sâu, tôi, Mipam Tcheu Ouang, Vajreshvara (Karmapa Ouang
Tchuk Dorjé đệ IX, 1556-1603) đã biên soạn tập sách này, đúng theo lời của
chư Tổ quá khứ, tại Tu viện của Sho-Ka-Ouor, thể theo lời thỉnh cầu của
Samdé Lama Rabjam Mawa Samten Kunga.
Có chút công đức nào, tôi xin
hồi hướng cầu cho tất cả chúng sanh - cha mẹ quá khứ nhiều đời - thảy đồng
thoát ly khỏi mọi cám dỗ của dục lạc và trực kiến bổn
tánh.
Shoubhamastou
sarouadjagatam
Nguyện cho thế
giới được thanh bình an lạc.
Lời phụ kết của dịch
giả
Trước khi tu tập Ðại Thủ Ấn,
hành giả cần rõ ba điều: Yểm ly, Bồ Ðề Tâm và Không tánh.
Yểm ly là chắc thực, thấy rõ sự
vô thường đau khổ của cảnh đời, sanh tâm nhàm lìa, cầu giác ngộ giải
thoát. Bồ Ðề Tâm là chí nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh là cha mẹ
anh em từ nhiều đời. Không tánh (Vacuité, Sunyata) tức tánh không thực của
các pháp. Hãy cẩn thận, Không tánh ở đây không phải là cái chơn không
chứng đạt sau khi tu tập Ðại Thủ Ấn, mà là một khái niệm ý thức về Không
tánh, nó có thể giúp hành giả thoát khỏi những khái niệm nhị biên. Ðể hiểu
rõ Không tánh (trên phương diện ý thức), đọc giả có thể nghiên cứu học hỏi
theo luận lý của Trung Quán (Madhyamika).
Về các pháp dự bị tu tập, có 4
pháp thuộc Mật giáo và 4 thuộc Hiển giáo. Nếu đọc giả chưa bao giờ thọ
giáo với các vị Sư Lạt Ma Tây Tạng thì chỉ nên tu tập 4 pháp thuộc Hiển
giáo. Trọng tâm của 4 pháp: Quy lạy, Kim Cang quán, cúng dường Mạn đà La,
Bổn Sư Du Già, chính là vị Thầy Bổn Sư (Lama-racine, Root-Guru). Nếu chưa
gặp hoặc chưa hoàn toàn tin tưởng một vị Thầy thì không nên tu tập 4 pháp
này. Về phần tu tập chính yếu, tức Chỉ Quán (Shiné-Lhaktong), đọc giả có
thể nương theo sách mà tu tập, nhưng chắc đọc giả cũng đã để ý, và trong
nguyên bản cũng nhấn mạnh rằng sự chỉ đạo trực tiếp của một vị Thầy rất
quan trọng và cần thiết.
Tu thiền không phải chỉ ngồi
thiền không là đủ, cần phải đọc sách nghe Kinh, tham vấn học hỏi bậc Thầy,
thiện tri thức. Bồ Tát Sơ Ðịa còn phải học với Bồ Tát Nhị Ðịa, Bồ Tát Thập
Ðịa còn phải học với Ðẳng Giác. Ngày nào chưa giác ngộ, ngày đó còn phải
tìm Thầy học đạo cho khai ngộ, được khai ngộ rồi cần phải tiếp tục nương
tựa vị Thầy đó cho đến ngày chứng đạo. Ðược vậy mới sớm giải thoát, sớm
phá trừ ngã chấp cho là mình đã hiểu thiền rồi tự mãn ngâm thơ vịnh khúc.
Tuy nhiên, trong việc tìm Thầy cũng phải cẩn thận, dùng trí huệ xét soi,
không nên nghe nói ai hay, nổi tiếng, có thế lực là vội vàng tin
theo.
Vài lời nhắn nhủ bạn đạo, nếu
không hợp xin vui lòng bỏ qua, tiếp tục sống đời của mình. Dù có hận thù
hay yêu thương, ưa thích hay chán ghét thì nước kia vẫn chảy, mây kia vẫn
trôi ...